Thứ Tư, 29 tháng 2, 2012

Ba chước cám dỗ

[caption id="attachment_3263" align="aligncenter" width="420" caption="Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ"][/caption]

Đời tôi là một cuộc chiến đấu triền miên. Chiến đấu vì nhiều mục đích. Mục đích quan trọng nhất là để chọn lựa những gì Chúa muốn.

Những gì Chúa muốn tôi chọn trên đường làm chứng cho Chúa không luôn dễ dàng. Những gì Chúa muốn tôi chọn trên đường truyền giáo càng không luôn nhẹ nhàng.

Chuyện Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa là một khuyến cáo.

1. Gương Chúa Giêsu

Phúc Âm Thánh Luca viết: “Đức Giêsu được đầy Thánh thần, từ sông Giođan trở về, được Thánh thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả. Hết thời gian đó, Người thấy đói. Bấy giờ quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh”. Nhưng Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.

Sau đó, quỷ đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, nó chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh quang lợi lộc các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”. Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.

Quỷ đem Đức Giêsu đến Giêrusalem, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đứng dậy mà nhảy xuống đi. Vì đã có lời chép rằng: ‘Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn’; Lại còn chép rằng: ‘Thiên sứ sẽ ra tay đỡ nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá’. Bấy giờ Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.

Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ. (Lc 4,1-12)

Chúng ta có thể thấy: Cả 3 cám dỗ đều nhắm vào quyền lực.

Biến đá thành bánh là quyền lực kinh tế. Chiếm đoạt các nước là quyền lực chính trị. Nhảy từ cao xuống là quyền lực thần thiêng, thắng mọi hiểm nguy, kể cả sự chết.

Cả 3 quyền lực đó có vẻ rất thuận lợi, để làm chứng cho Chúa, và mở rộng đạo Chúa.

Nhưng Chúa Giêsu đã chối từ dứt khoát. Người không coi quyền lực là chiến lược làm chứng cho Chúa và truyền giáo. Dùng quyền lực không là ý Chúa Cha.

Thánh ý Chúa Cha trên đường làm chứng cho Chúa và truyền giáo là:

- Cầu nguyện.
- Sám hối.
- Chay tịnh.
- Yêu thương đến cùng, dù phải chịu chết.

Gương Chúa Giêsu là thế. Gương đó đề cao những lựa chọn theo thánh ý Chúa. Để lựa chọn đúng, Đức Kitô đã phấn đấu. Phấn đấu ấy có những từ bỏ không dễ dàng.

2. Trước gương Chúa Giêsu

Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, trước khi Người lên đường rao giảng Tin Mừng. Thiết tưởng, khi ghi lại chuyện đó trong Phúc Âm, Chúa muốn nhắn gởi các môn đệ Người một điều quan trọng. Điều quan trọng đó là:

Suốt đời, trên đường thi hành sứ vụ, người rao giảng Tin Mừng sẽ là người bị ma quỷ theo sát và mời mọc.

Cám dỗ thường xuyên nhất ma quỷ đưa ra sẽ là:

- Ham mê tiền bạc, của cải.
- Ham mê địa vị, danh vọng.
- Ham mê quyền phép phi thường thắng vượt mọi thứ cản trở.

Những cám dỗ đó thường rất ngọt ngào, có vẻ hợp lý, có thể trở thành chiến lược truyền giáo.

Chúa Giêsu biết trước sự yếu đuối mê muội của ta, nên đã nêu gương sáng bằng cách chống lại những cám dỗ đó, thay vào đó là hãy ưu tiên dùng sự cầu nguyện, chay tịnh, sám hối, bác ái đến cùng.

Nhưng, trong chiều dài lịch sử, nhất là hiện nay, không thiếu những người lại chấp nhận 3 cơn cám dỗ của Satan.

Có loại người đón nhận 3 quyền lực mà quỷ đề nghị, chỉ vì động lực mưu tìm tư lợi.

Có loại người đón nhận hoặc cả 3 quyền lực, hoặc từng quyền lực tuỳ theo hoàn cảnh, vì động lực có vẻ đạo đức. Như là để mở rộng Hội Thánh, để chiến thắng những người cạnh tranh về đạo, để làm chứng cho Chúa.

Một khi đã say mê với con đường quyền lực, người ta sẽ dễ ơ hờ với cầu nguyện, sám hối, chay tịnh và bác ái, hy sinh từ bỏ cái tôi của mình.

Nhất là khi con đường quyền lực lại được biện minh bằng những lý do đạo đức, người ta sẽ dễ rơi vào cạm bẫy của Satan. Cạm bẫy của Satan thường rất tinh vi và thâm độc.

Hậu quả cay đắng nhất là họ trở nên cứng lòng trong thói quen sai lầm. Họ bị quỷ xiềng xích trong mưu chước của nó, khó gỡ ra được.

Tôi lo sợ điều xấu ấy xảy ra cho chúng ta. Nên phải luôn khiêm tốn. Khiêm tốn là một phấn đấu cam go. Mỗi ngày có những cám dỗ riêng của ngày đó. Mỗi ngày có những phấn đấu mới hợp cho ngày đó.

Phấn đấu quan trọng nhất là phấn đấu với chính mình, để trở nên con người mới. Nhờ thế, càng ngày càng sáng lên nơi ta hình ảnh của Chúa Giêsu sống động, là Đấng Cứu Thế giàu lòng thương xót.

Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.

 Gm. G.B. Bùi Tuần

Nhân tố “chính bạn” trong việc loan báo Tin Mừng

[caption id="attachment_3287" align="aligncenter" width="479" caption="“Tôi là Ánh Sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12)"][/caption]



Là người tín hữu, chúng ta có nhiệm vụ mang Tin Mừng, thông điệp tình yêu và ơn cứu độ của Chúa, đến với thế giới. Để có thể thực hiện nhiệm vụ ấy một cách thích hợp, cần hiểu rõ những thay đổi căn bản nảy sinh trong xã hội làm ảnh hưởng đến những giá trị, quan điểm và nhận thức về Kitô giáo của rất nhiều người. Việc nhận ra rằng những thay đổi trên đã ảnh hưởng sâu sắc và làm cho mọi người sợ hãi, bất an và cũng như hoài nghi có thể giúp chúng ta truyền đạt thông điệp theo cách thích hợp hơn cho những người chúng ta tiếp xúc.

Chúng ta biết Tin Mừng chính là thông điệp dành cho thế giới hôm nay, nhưng tìm ra cách thức để mang Tin Mừng đến với những người vẫn chưa tìm thấy điều hấp dẫn nơi thông đẹp, hoặc với những ai đã từ chối thông điệp vì lý do nào đó, luôn là một thách thức. Thế giới hiện đại thay đổi nhanh đến chóng mặt trong vòng 30 năm qua và nó tiếp tục thay đổi từng ngày. Chủ nghĩa thế tục đã ảnh hưởng và ăn sâu vào suy nghĩ với những giá trị khuyến khích tính tư lợi và chủ nghĩa vật chất, cũng như những giá trị không phù hợp và huỷ hoại những giá trị truyền thống và những giá trị của Kitô giáo.

Những nguyên tắc hoặc những khái niệm vốn được xem là nền tảng trong xã hội phương Tây trong một thời gian dài giờ đã không còn được xem trọng nữa. Những nguyên tắc như: “Nếu bạn học giỏi và làm việc chăm chỉ, bạn sẽ có được vị trí hàng đầu” không còn đúng như trong quá khứ. Rất nhiều người cảm thấy bất an về tương lai. Họ giảm lòng tin nơi chính quyền, tôn giáo và những tổ chức giáo dục, hoặc nghi ngờ tính trung thực của những gì họ đọc và nghe từ báo chí và phương tiện truyền thông. Ngay cả việc gửi tiền tiết kiệm cũng nguy hiểm khi rất nhiều tổ chức tài chính phá sản, thậm chí nhiều quốc gia đứng trên bờ vực sụp đổ kinh tế.

Môi trường xã hội, tri thức, đạo đức, văn hoá… ngày nay nóng lên với vô số những nghi ngờ, hoài nghi, chối bỏ những gì được xem là chuẩn mực và giá trị trong suốt nhiều năm, đã dẫn đến sự thay đổi nơi những giá trị, những chuẩn mực đạo đức, quan điểm, mối quan hệ với quyền lực của rất nhiều người cũng như tương quan của họ với những người khác. Đối với rất nhiều người, họ cảm thấy rất khó khăn để biết đâu là điều họ có thể đặt tin tưởng. Trong khi đối với số khác, điều kiện thế giới và xã hội mang họ đến gần với thông điệp của Tin Mừng; và với số khác, môi trường thế giới hiện ngay khiến họ khó khăn để thích ứng cũng như tin tưởng và chấp nhận.

Thực tại này đưa ra cho chúng ta, những người dấn thân loan báo Tin Mừng, vô vàn những thử thách, vì chúng ta được mời gọi mang thông điệp về một người đã sống, đã chết và đã sống lại cách đây hơn 2.000 năm - với xác tín rằng đây chính là thông điệp quan trọng nhất mà mọi người từng nghe. Vì thế, việc tìm ra cách thức mới và sáng tạo để thể hiện và truyền đạt thông điệp muôn thuở về tình yêu Thiên Chúa theo cách phù hợp với xu hướng của thế giới hiện đại là vô cùng quan trọng. Chắc chắn những Kitô hữu trong quá khứ cũng gặp những thách thức trong thời đại của họ, và chúng ta có những thách thức trong thế giới ngày hôm nay.

Chúng ta đang đối mặt với thách thức là làm thế nào để giới thiệu Chúa Giêsu theo cách thức có thể tạo ra tiếng vang đối với những người chúng ta tiếp xúc, đặc biệt là rất nhiều người xem những giá trị Kitô giáo không còn phù hợp với cuộc sống và quan điểm của họ. Trong một số khu vực trên thế giới, nơi Kitô giáo đang phát triển, việc loan báo Tin Mừng có thể được thực hiện dễ dàng vì mọi người quan tâm đến những vấn đề tâm linh, đặc biệt là ở những quốc gia coi trọng sức mạnh tinh thần. Ở rất nhiều quốc gia, đôi khi rất khó để nói những chủ đề về Chúa, bởi vì sự lan rộng của chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa duy vật và thuyết duy lý đã thay thế niềm tin vào Chúa và làm cho Ngài không còn phù hợp với hệ thống niềm tin của họ. Lẽ dĩ nhiên, những Kitô hữu đang sinh sống tại những quốc gia không có nền văn hoá hoặc di sản Kitô giáo, như những quốc gia phương Đông hoặc Trung Đông chẳng hạn, phải đối mặt với những thách thức khác trong việc loan báo Tin Mừng.

Mỗi một cá nhân nơi mỗi quốc gia hoặc mỗi nền văn hoá đều xứng đáng và cần nghe Tin Mừng. Là những tín hữu, chúng ta có nhiệm vụ mang Tin Mừng và sống Tin Mừng nơi quốc gia, nền văn hoá và cộng đồng mà chúng ta đang sinh sống, theo những cách thức tạo ra tiếng vang đối với họ. Thông điệp cần được giải thích theo cách thức để người nghe dễ hiểu và dễ chấp nhận nhất. Điều này có nghĩa là việc truyền đạt thông điệp, phong thái, những khía cạnh nào nên được trình bày, trình bày thế nào, và tốc độ truyền đạt sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào quốc gia, nền văn hoà mà bạn đang sinh sống, và lẽ dĩ nhiên là tuỳ thuộc vào cá nhân mà bạn tiếp xúc.

Thông điệp căn bản của Tin Mừng là một, và không nên nói sai, nhưng cách thức truyền đạt thông điệp ấy - cách thức kể lại câu chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu, những khía cạnh nổi bật trong thông điệp, hoặc những chi tiết nhỏ - theo cách dễ hiểu và phù hợp là hết sức quan trọng. Một phần trong thách thức chính là tìm ra cách thức rao giảng Tin Mừng phù hợp với những người bạn làm chứng. Và bởi vì tính khác nhau ở những quốc gia khác nhau, hoặc giữa những cộng đồng khác nhau nếu quốc gia bạn đang sinh sống bao gồm những nhóm văn hoá khác nhau, những cách thức truyền đạt thông điệp cần phải thay đổi cho phù hợp với từng đối tượng.

Lẽ dĩ nhiên, những cách thức nên được những chứng nhân Kitô hữu sử dụng chính là: sống yêu thương, khoan dung, nhẫn nại và biết lắng nghe. Những điều có liên quan đến một khía cạnh quan trọng nhất trong việc loan báo Mừng chính là yếu tố “chính bản thân bạn”. Bạn chính là người truyền đạt thông điệp. Bạn gửi gắm thông điệp và xác minh tính chân thật của nó. Bạn hứa rằng thông điệp ấy có tác dụng.

Rất nhiều người ngày nay thận trọng với những thông điệp họ nghe, và tại sao họ lại làm thế? Mỗi ngày, trên Internet, TV, tin tức và quảng cáo…, họ bị tấn công dồn dập bởi những thông điệp rằng họ cần thứ này, điều kia, rằng đây là cách suy nghĩ đúng, vị trí đúng. Đối với họ, thông điệp của Tin Mừng cũng giống như một lời quảng cáo khác nói cho họ biết họ cần điều gì, họ phải sống thế nào, điều gì sẽ làm họ hạnh phúc. Mỗi người thường không tin tưởng vào những thông điệp thế này, bởi vì kinh nghiệm cho họ thấy rất nhiều thông điệp chẳng có nội dung gì hoặc không có cơ sở. Rất nhiều người đang tìm kiếm câu trả lời, nhưng rất nhiều người cẩn trọng trong việc tạo niềm tin tưởng nơi họ.

Đó là lý do tại sao yếu tố “chính bản thân bạn” là rất quan trọng. Bạn chính là tiêu biểu cho thông điệp. Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí của Chúa Giêsu, đang ngự trong bạn. Bạn là ai, bạn sống thế nào, tình yêu mà bạn thể hiện, sự tử tế, sự cảm thông và quan tâm, tất cả phản ánh Thần Khí của Thiên Chúa, Đấng sống trong bạn. Thánh Thần sẽ tác động đến tâm hồn của cá nhân ấy, nhưng sự tác động ấy thường được đến từ tấm gương của bạn. Họ sẽ quan tâm đến thông điệp bởi vì họ nhìn thấy ánh sáng và cảm nhận được sự ấm áp; điều ấy mang đến lòng khao khát được nghe những gì bạn nói, đón nhận những gì cần đón nhận và tin vào những gì bạn nói với họ.

Một trong những thách thức của chúng ta với tư cách là Kitô hữu trong thời đại ngày nay chính là để cho Thần Khí phản chiếu thông qua cuộc sống chúng ta, nhờ đó, mọi người được thu hút và tò mò bởi ánh sáng mà họ nhìn thấy nơi chúng ta. Và rồi, từ việc tiến gần hơn đến sự ấm áp của ánh sáng, họ sẽ nối kết với Đấng chính là Ánh Sáng cho trần gian và Đấng sẽ ban cho họ Ánh Sáng Sự Sống vì Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là Ánh Sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Chúng ta phản chiếu ánh sáng ấy khi chúng ta yêu Chúa và thực sự sống những nguyên tắc được Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng.

Lẽ dĩ nhiên, những gì sẽ thu hút mọi người ở những nơi nào đó có thể bị khước từ ở những nơi hoặc tình huống khác. Đây chính là lúc áp dụng nguyên tắc trở nên một, nguyên tắc mà Tông Đồ Phaolô đã nói đến trong Thư Côrintô: “Với người Do Thái, tôi đã trở nên người Do Thái, để chinh phục người Do Thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật, dù không còn phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài Lề Luật Thiên Chúa, nhưng sống trong Luật Đức Kitô để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật” (1 Cr 9,20-22).

Đây chính là một nguyên tắc quan trọng áp dụng cho mọi nền văn hoá cũng như mọi cá nhân. Tông Đồ Phaolô nói rằng cần trở nên thích hợp, cần hiểu rằng con người cũng như văn hoá là khác nhau, và để chinh phục họ, cần phải hoà nhập, phải nhận ra những gì thích hợp với họ, điều gì quan trọng đối với họ và tiếp xúc với họ theo văn hoá và điều quan trọng đối với họ.

Trước khi họ thể hiện sự quan tâm đối với điều làm bạn trở nên khác biệt, họ cần nhận ra những điều bạn giống với họ, rằng bạn chia sẻ cùng một số những giá trị với họ, rằng bạn thông hiểu, và không phải ai đó vượt trội hoặc ai đó không hề liên quan gì đến những vấn đề họ quan tâm.

Để việc loan báo Tin Mừng cho mọi người trở nên hiệu quả, cần phải thích ứng với họ. Để đến được với mọi người trong thành phố hoặc trong quốc gia của bạn, hoặc với những đồng nghiệp, hoặc những người láng giềng, những người thân quen, bạn cần phải hiểu họ, hiểu văn hoá của họ, hiểu những gì họ coi trọng. Việc hoà nhập vào văn hoá là rất quan trọng, nhờ đó, họ có thể tin tưởng bạn, và từ việc tin tưởng bạn, họ sẽ cảm thấy đủ an toàn để chấp nhận những gì bạn nói với họ về Thiên Chúa, về tình yêu của Ngài và về Con của Ngài.

Bạn không thể nói cho mọi người biết rõ rằng bạn yêu họ nếu bạn chưa cố gắng học ngôn ngữ, tập quán, văn hoá, lịch sử, tôn giáo, đặc điểm, những nét tiêu biểu của quốc gia họ… vốn dĩ là một phần của họ. Chúng ta không thể hy vọng hiểu rõ được họ hoặc đến với họ một cách hiệu quả nếu không thể hiện sự quan tâm yêu thương đích thực đến những điều góp phần làm nên chính con người họ và những gì họ thật sự yêu thích.

Thế giới đã thay đổi, đang thay đổi và sẽ tiếp tục thay đổi. Để thật sự đạt được hiệu quả trong việc rao giảng Tin Mừng, chúng ta cần phải thích ứng với những thay đổi ấy, những những ngôn ngữ mà mọi người đang sử dụng và truyền đạt thông điệp bằng chính ngôn ngữ của họ.

Chúng ta cần tìm hiểu: Đâu là ngôn ngữ mà những người mà bạn đang sống cùng sử dụng? Những mối quan tâm, lo lắng và say mê của họ? Điều gì thúc đẩy họ? Đâu là những nguyên tắc của họ? Những hệ thống giá trị của họ là gì? Thế giới riêng tư của họ như thế nào?

Chúng ta cần phải tìm hiểu tất cả những gì chúng ta có thể tìm hiểu về một người, cũng như trở nên một giống như họ - sự thật là, để trở nên một giống như họ, chúng ta phải thật sự giao tiếp với họ bằng ngôn ngữ mà họ hiểu, để nhờ đó, họ hiểu rõ được thông điệp chúng ta truyền đạt.

Hãy tìm kiếm Thiên Chúa để Ngài chỉ cho bạn biết làm thế nào để thể hiện và kể về câu chuyện tình yêu của Ngài với những người xung quanh theo cách họ dễ hiểu nhất. Hãy cầu nguyện xem liệu cách thức bạn đang sử dụng để truyền đạt thông điệp có thích hợp và hiệu quả không. Hãy xin Ngài chỉ cho bạn biết những hành động, biểu tượng, lời nói bạn có thể dùng để mọi người có thể hiểu được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho họ.

Hãy xin Ngài giúp bạn thông hiểu và trở nên giống họ để bạn có thể chinh phục được họ. Tương tự như Tông Đồ Phaolô, một trong những chứng nhân Kitô hữu vĩ đại nhất hãy nói: “Tôi trở nên giống như những người nơi tôi đang sống, để chinh phục họ. Tôi học cách hiểu họ, cảm thông với họ, sống như họ để tôi có thể nói tôi là một trong số họ, nhờ đó, tôi có thể chinh phục được họ. Tôi trở nên một với những người ở công sở, nơi trường học, trong khu phố… để họ có thể biết tôi; và qua việc biết tôi và cảm nhận được Thánh Thần ngự trong tôi, họ có thể biết Chúa, Đấng hy sinh mạng sống của Ngài, để nhờ đó họ có được sự sống đời đời.

Hãy làm những gì bạn có thể, khi bạn có thể, hãy để ánh sáng của Thiên Chúa chiếu qua bạn, nhờ đó, bạn có thể dẫn những người khác đến với Ngài.

An Nhiên dịch

Nhân viên ngành y truyền cảm hứng đức tin cho bệnh nhân

[caption id="attachment_3282" align="aligncenter" width="432" caption="“Tôi tạ ơn Chúa vì Ngài ban cho tôi mạng sống và thân thể tật nguyền này để làm chứng cho Ngài. Khi điều trị cho bệnh nhân hoặc khách hàng cần tư vấn, tôi thường lấy trường hợp của tôi làm ví dụ để nói về niềm tin rằng mạng sống quý giá là quà tặng Thiên Chúa ban cho mà ta cần gìn giữ”."][/caption]

Phóng viên UCA News từ Đồng Nai

Khoảng 300 bác sĩ, y sĩ, điều dưỡng và thiện nguyện viên thuộc Giáo phận Xuân Lộc tham dự buổi gặp gỡ hôm 26-2 mừng Ngày Thầy thuốc Việt Nam, 27-2, tại Giáo xứ Bình Hải ở thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.

Sự kiện có chủ đề Vai trò của niềm tin trong điều trị nhằm “giúp các nhân viên ngành y nhìn lại bản thân trong chăm sóc và điều trị bệnh nhân, đồng thời giúp họ ý thức tạo niềm tin giúp bệnh nhân vượt qua bệnh tật” – theo Linh mục Đa Minh Trần Công Hiển, trưởng ban tổ chức.

Các tham dự viên đã chia sẻ kinh nghiệm trong công tác chăm sóc, điều trị bệnh nhân.

Anh Anrê Phạm Duy Linh, một người khuyết tật và là giám đốc một công ty tư vấn tâm lý giáo dục, cho biết: “Tôi đã dùng niềm tin và cứu được cô gái 21 tuổi có ý định tự tử vì bị xâm hại tình dục”.

“Tôi dạy cô cầu nguyện với Đức Mẹ dù cô ấy không có đạo, cuối cùng cô ấy đã từ bỏ ý định tự tử, giờ đã tốt nghiệp cao đẳng kinh tế và đã có việc làm ổn định” – anh Linh kể.

Người đàn ông 52 tuổi nói: “Tôi tạ ơn Chúa vì Ngài ban cho tôi mạng sống và thân thể tật nguyền này để làm chứng cho Ngài. Khi điều trị cho bệnh nhân hoặc khách hàng cần tư vấn, tôi thường lấy trường hợp của tôi làm ví dụ để nói về niềm tin rằng mạng sống quý giá là quà tặng Thiên Chúa ban cho mà ta cần gìn giữ”.

Y tá Maria Ngô Thị Dung, phục vụ 10 năm trong bệnh viện tâm thần, chia sẻ rằng bệnh nhân đến bệnh viện vì họ tin vào thầy thuốc, nhưng đôi khi họ lại mất niềm tin khi bác sĩ hoặc nhân viên có thái độ xem thường họ.

Chị Dung nói bệnh nhân tâm thần không còn ý thức, không làm chủ được bản thân là họ đang chịu nhiều thiệt thòi. “Đôi khi bị họ đánh, chửi bới vô cớ nhưng tôi vẫn nhẫn nại chăm sóc, lắng nghe họ nói vì tôi yêu thương họ như người thân. Giúp họ được phục hồi là điều quan trọng nhất với tôi” – chị nói.

Bác sĩ Antôn Bùi Duy Luật nói rằng ở một số bệnh viện nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh có tượng Đức Mẹ và tượng Phật Bà Quan Âm trong khuôn viên bệnh viện. Rất nhiều bệnh nhân cầu nguyện để xin ơn chữa lành và xin ơn bình an.

Vị bác sĩ 35 tuổi nói rằng việc cầu nguyện còn có tác dụng giúp bệnh nhân giảm đau hoặc hoà giải, tha thứ cho tha nhân.

Cha Hiển, Chánh xứ Bình Hải, nói rằng nhóm thầy thuốc thiện nguyện được hình thành cách đây 12 năm, hiện có 100 thành viên gồm bác sĩ, y tá, điều dưỡng, dược sĩ và nha sĩ Công giáo và không Công giáo. Mỗi năm, nhóm tổ chức khám bệnh và phát thuốc miễn phí 2 lần ở các giáo xứ vùng sâu xa từ nguồn kinh phí do các ân nhân đóng góp.

Nguồn: UCAN

Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012

Xin cùng Lần Chuỗi Mân Côi để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân ở Iran


Đáp lại lời kêu gọi của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ đã kêu gọi tất cả chúng ta là những người con của Mẹ cầu nguyện để ngăn chặn một cuộc chiến tranh hạt nhân có thể nổ ra ở Iran. 

Chúng ta hợp lời cầu nguyện cùng với tất cả các anh chị trên toàn thế giới qua chàng chuỗi Mân Côi và dưới sự cầu bầu vạn năng của Mẹ Hiền yêu dấu của chúng ta. 

Chúng ta sẽ dành trọn một ngày đặc biệt hôm nay (29/2) để cầu nguyện và nhất là Lần Chuỗi Mân Côi. Và giờ cầu nguyện đỉnh cao nhất trong ngày - 3 giờ chiều - giờ của Lòng Thương Xót. Nếu có thể được, xin mọi người quy tụ lại thành các Nhóm để cùng cầu nguyện.

Xin Chúa & Mẹ Maria thương chúc lành cho nhân loại chúng con!
Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi các Linh Hồn.

Ai đọc kinh Mân Côi sốt sắng thì có thể sai khiến được cả Thiên Chúa


Lịch sử Giáo Hội còn ghi đậm nét chiến thắng oai hùng của người Công Giáo tại vịnh LEPANT do sức mạnh của Kinh Mân Côi mang lại khi Âu Châu bị người Hồi Giáo tấn công ngày 7-10-1571. Ðể kỷ niệm muôn đời chiến công rực rỡ ấy Ðức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập ngày Lễ Kính Ðức Mẹ Mân Côi vào năm 1573. Ðời Giáo Hoàng Clemente XI đã cổ võ khắp Giáo Hội mừng Lễ kính trọng này. Ngược dòng Lịch sử, người ta thấy Thánh Tổ Phụ Ða Minh đã nhờ Kinh Mân Côi đập tan bè rối Albigense. Bởi vì "Kinh Mân Côi, theo Ngài, là cách cầu nguyện đẹp lòng Chúa Giêsu và Ðức Mẹ nhất". Thánh Bênađô Tiến Sĩ Mật của Ðức Mẹ cũng nói "Kinh Mân Côi có sức xua đuổi ma quỷ và làm cho hoả ngục kinh hoàng khi nghe Thánh Danh Maria". Các vị Ðại Thánh cũng thừa hiểu sức mạnh vô địch của vũ khí này nên đã hăng say cổ võ mọi người năng đọc Kinh Mân Côi như Thánh Phêrô Canisiô, Thánh Philiphê Nêri, Thanh Luy đệ Monpho. Ðức Leô XIII Giáo Hoàng của Kinh Mân Côi, rất năng đọc Kinh Mân Côi nơi công cộng và truyền bá kinh này khắp nơi. Năm 1938 Ðức Giáo Hoàng Piô XI ban ơn Ðại Xá cho những ai lần hạt Mân Côi trước Thánh Thể.



Kinh Mân Côi không những là khí giới vô địch đã từng gây thảm bại cho hoả ngục và bè lũ, mà còn mang lại bao chiến công rực rỡ nơi các tâm hồn chai đá, tội lỗi, khô khan. Ngày 10-3-1515, Cha OGILIE, vị thừa sai nổi tiếng phải bước lên đoạn đầu đài Glasgow vì tội rao truyền Phúc Âm. Trong giây phút cuối cùng này, từ trên máy chém nhìn xuống thấy hàng ngàn người đang theo dõi mình, muốn trao trối lại một kỷ vật và một bảo đảm Ðức Tin, vị Tử Ðạo đã lấy ra một kỷ vật cuối cùng còn lại trong mình: một Chuỗi Tràng Hạt và cố sức ném thật mạnh vào giữa biển người. Chuỗi Tràng Hạt rơi trúng một ông Hoàng Hung Gia Lợi John od Eckersdorff, người tin lành Calvin, đang trên đường chu du học hỏi bất ngời ghé qua Glasgow. Ông vội đưa tay thộp lấy báu vật này, lòng cảm kích. Chuỗi Mân Côi cứ theo sát ông đi mọi nơi cho tới ngày ông quyết từ bỏ Calvin trở về với Giáo Hội Công Giáo.

Theo Thánh Gioan Kim Khẩu, "Thiên Chúa cai trị vũ trụ, nhưng phải thua người cầu nguyện sốt sắng". Mà Thánh Phanxicô Salê lại nói: "Cách cầu nguyện sốt sắng nhất chính là đọc kinh Mân Côi... Ai đọc kinh Mân Côi sốt sắng thì có thể sai khiến được cả Thiên Chúa". Ðó chính là lý do chúng ta gọi kinh Mân Côi là khí giới vô địch vậy.

(NolaViet)


Chiến dịch Cầu Nguyện (12): Cầu cho việc tránh khỏi Tội Kiêu Căng


Con gái của Ta, Ta cần những lời nguyện cho tất cả những tín hữu để họ có thể cứu các linh hồn tội lỗi. Nhiều người kiêu hãnh tự nhận những kiến thức về giáo huấn của Ta, sự thiếu khiêm nhường của họ làm Ta đau đớn. Họ phải cầu xin ơn khiêm nhường để họ có thể trở nên bé nhỏ một lần nữa và tin tưởng vào Ta. Xin họ hãy đọc kinh này.
“Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con tránh khỏi tội kiêu ngạo khi con nói với danh nghĩa Chúa. Xin tha thứ cho con nếu con đã coi thường một ai đó trong Danh Thánh Ngài. Xin giúp cho con biết lắng nghe, lạy Chúa Giêsu, khi tiếng Ngài được nói đến và xin hãy đổ đầy trong con Thần Khí của Ngài, để con có thể phân định sự thật của lời Ngài khi Ngài kêu gọi loài người. Amen”.

Chiến dịch Cầu Nguyện (11): Chấm dứt sự thù ghét các thị nhân


“Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin chấm dứt sự thù ghét và ghen tỵ giữa những người theo Chúa đối với các thị nhân thật trong thời kỳ này. Con cầu xin Ngài hãy lắng nghe lời con cầu nguyện mà ban cho các thị nhân sức mạnh cần thiết để tuyên xưng lời cực thánh thiện cho những người không tin trên thế giới. Amen”.

Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012

Sự Chết - Một cuộc phán xét

[caption id="attachment_3248" align="aligncenter" width="531" caption="“Bao lâu còn sống trong thân xác này là bấy lâu chúng ta lưu lạc xa Chúa”"][/caption]

 

Ý tưởng này mới làm người ta ghê sợ và lo âu nhiều.

Chúng ta đã từng biết về những phiên toà xét xử tội nhân ở đời này như thế nào. Và luật pháp của mỗi quốc gia sẽ xử tội nhân ấy một cách khác nhau. Nhưmg nhìn chung luôn là sự xét xử công minh khách quan. Tội càng lớn thì xử càng nặng. Ai nặng nhất là tử hình. Tử hình dươí nhiều hình thức.

Không biết sự chết nơi thân xác con người có luôn luôn gây ra đau đớn lắm không thì không ai biết rõ vì chưa một lần trải qua nhưng chắc chắn có một sự dằn vặt nào đó. Đôi khi có cả giãy giụa, như người ta nói là: giãy chết!

Sự ra khỏi thân xác của linh hồn người ta là điều khó khăn vô cùng. Vì một đàng thân xác  thì cứ muốn giữ linh hồn lại nơi trần gian. Nhưng “Bao lâu còn sống trong thân xác này là bấy lâu chúng ta lưu lạc xa Chúa”. Đàng khác, bấy lâu nay, linh hồn đã quá “quen” sống trong thân xác người ta và gắn bó với nhau quá tha thiết trong việc tốt cũng như việc xấu nên có thể sẽ rất “ngại”  bỏ nơi ấy mà ra đi, nếu chưa muốn nói là ra đi để chịu phán xét! Cũng như ai đó, khi phải điệu ra toà án đều ngập ngừng, trốn tránh, hồi hộp không muốn bước đi nữa.

Không một ai tránh được phiên toà xét xử của Thiên Chúa. Không một ai lẩn trốn trước thánh nhan Ngài. Chính sự chết của con người làm cho linh hồn bị “cô lập” trước mặt Chúa. Chính Thiên Chúa quyết định “trạm dừng chân” đầu tiên cho linh hồn người ta. Nơi ấy, lúc ấy diện đối diện. Hoàn toàn trần trụi. Thanh thiên bạch nhật. Thẩm phán và tôi phạm. Vị tuyên án và kẻ lãnh án.

Sự đột nhập của cái chết dẫn người ta đến cuộc phán xét đầy bất ngờ như chính cái chết vậy. Làm sao có thể nói rõ hơn như Thánh Phaolô đã diễn tả: mọi người đều phải ra trước toà án Đức Kitô để phơi bày sự thật công trạng, tội phúc của mình. Tính chất xác thực của cuộc phán xét này nói lên sự công minh chí thành của Thiên Chúa muốn gây nên một ấn tượng trong đời sống tại thế của con người khi họ phải thi hành việc lành hay việc dữ. Tính chất xác thực của cuộc.  Phán xét này cũng mở đường cho nỗi chờ mong của những kẻ lành, người công chính đang chờ ngày được “giải án tuyên công”.

Thế đã rõ là cần phải có cuộc phán xét như vậy lắm. Và ai cũng mong được Thiên Chúa phán xét một lần cho xong để rõ sự việc. Cái chết là một phương án giải quyết công việc này!

Trong cái nhìn của những kẻ thiếu niềm tin thì họ chỉ nghĩ rằng cuộc phán xét mang nặng tính kết án, luận phạt vì đã bị những tư tưởng toà án đời chi phối nhiều mà không hiểu được cái nghĩa cuộc phán xét còn là giờ trao phần thưởng, trao triều thiên. Cho nên Thánh Phaolô khi biết mình sắp chết đã nói: Giờ đây triều thiên của sự công chính sắp trao lại cho cha. Vì thế, chúng ta cần phải tập loại bớt đi tính tiêu cực của một toà án để hiểu về tình thương yêu nhân từ của Thiên Chúa thì hơn. Một mặt chúng ta không được coi thường tội lỗi, mặt khác phải phấn đấu trong việc thiện để chờ ngày lãnh triều thiên.

Tâm thức con người dễ bị ám ảnh bởi sự tội sự ác mình gây ra. “Cọp ăn thịt người cọp ngủ, người ăn thịt người thức đủ năm canh”. Nên người ta dễ dàng nghĩ đến phán xét luôn kèm theo trừng phạt. Nhưng có thể xảy ra phán xét hoàn toàn không có trừng phạt như nói trên. Điều này tuỳ thuộc vào hiện trạng mổi cá nhân (phán xét riêng) và quan trọng hơn là tuỳ thuộc vào lòng nhân từ bao dung của Thiên Chúa. Đỉnh cao của cuộc phán xét này là phần thưởng chứ không phải là án tử hình hoặc chung thân như chúng ta thuờng nghĩ. Đấy là đặc tính khác thường nơi cuộc phán xét của Thiên Chúa nhằm tới. Ngài tìm cái để mà thưởng cho con người chứ không nhằm nhè tìm những sơ hở hay cụ thể hơn là ngồi đó mà chờ kẻ phạm tội để phạt xuống hoả ngục như mấy ông cảnh sát đứng ngoài đường giao thông!

Chúng ta rất mong chờ một cuộc phán xét như vậy. Chúng ta rất muốn mình được xếp vào diện người chờ lãnh phần thưởng. Đó là tâm tình tự nhiên. Tâm tình của kẻ đã chạy hết chặng đường đời về tới đích bằng tất cả nỗ lực cố gắng của mình.

Chúng ta chờ đợi một cuộc phán xét không có vành móng ngựa, không có luật sư, không có vẻ mặt lạnh lùng nghiêm khắc của vị quan toà, nhưng nơi ấy diễn ra như trong khung cảnh một gia đình có tương quan cha - con. Đấy là điều làm cho người Kitô hữu luôn phấn khởi và tự tin trong giờ phút phán xét của Chúa. Đấy cũng là lúc chúng ta được giãi bày tâm tư, nguyện vọng được sống mãi trước mặt vị thẩm phán. Đấy cũng là lúc bắt đầu cho một hành trình mới của sự sống mới ở thế giới bên kia.

Những lập luận có vẻ mang tính bảo vệ và bào chữa cho mình được lợi ở trên không phải là bảo đảm cho niềm tin hay kết quả chúng ta được hưởng mai sau  nhưng là sự suy nghĩ theo mạc khải và ý định đời đời của Thiên Chúa về thân phận con người chúng ta. Hãy vững tâm và chờ đợi.

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

Cạm bẫy

[caption id="attachment_3233" align="aligncenter" width="358" caption="“Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình”"][/caption]

Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ lông áo da thú.

Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.

Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình đang liếm máu của chính mình.

Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết.

***


Mùa Chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa Chay cũng là lúc dừng lại, để nhận ra những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác nên đã không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.

Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mùa quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc, kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy.

Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan luôn cảnh giác những cạm bẫy như thuỷ lôi trôi trên dòng đời.

Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ: “Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ” (Mc 1,13). Đây không phải là cám dỗ một lần thay cho một đời, nhưng là cuộc cám dỗ triền miên trọn cả kiếp người. Wendell Philips viết: “Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ”.

Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.

Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng.

Nếu thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt.

Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết: “Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình”. Vì chưng, có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.

***


Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.

Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen.

Thiên Phúc

Thời giờ đã đến

[caption id="attachment_3240" align="aligncenter" width="450" caption="“Dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, dù như vải điều thẫm cũng hoá trắng như tuyết” (Is 1,18)"][/caption]

Mùa Chay về. Tiếp theo là Tuần Thánh và Mùa Phục Sinh. Đây là Mùa Hồng Ân, là Mùa Cứu Độ. Bạn đã xưng tội chưa? Có vẻ như không thể Mùa Chay nào cũng trọn vẹn nếu không xưng tội. Nhiều nơi thường xuyên có giải tội, nhất là vào Mùa Chay. Xưng tội và rước lễ trong Mùa Chay cũng là giáo luật: “Xưng tội trong một năm ít là một lần” và “rước Mình Thánh Chúa Mùa Phục Sinh”.

Kinh Thánh xác định: “Dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, dù như vải điều thẫm cũng hoá trắng như tuyết” (Is 1,18).

Có nhiều lý do khiến người ta trì hoãn hoặc từ chối xưng tội. Có lẽ đây là vài lý do phổ biến:

1. Tôi không cần xưng tội.

Thật vậy không? Chắc chắn là nói dối, vì “ai cũng phạm tội” (x. Rm 5,12), như người ta thường nói: “Nhân vô thập toàn”. Mới sinh ra người ta đã có tội nên mới cần rửa tội. Hằng ngày, mỗi khi dâng lễ, ai cũng thú nhận: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”, và rồi tiếp tục “xin Chúa thường xót chúng con” 3 lần và “lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian, xin thương xót chúng con” 2 lần nữa. Chúa không muốn chúng ta “nói nhỏ” với riêng Ngài mà muốn chúng ta công khai thú tội: “Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực” (Gc 5,16). Công khai thú tội để được công chính hoá: Lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực. Như vậy, xưng thú tội lỗi là điều cần thiết, vì đó là một phần không thể thiếu trong đời sống của người Kitô giáo.

2. Tôi ngại vì bỏ xưng tội lâu rồi.

Đừng quên lời Thánh Phaolô: “Ở đâu nhiều tội lỗi thì ở đó nhiều ân sủng” (Rm 5,20). Hãy cầu nguyện bằng kinh Ăn Năn Tội để có thể cảm nghiệm được Hồng Ân Chúa dành cho chúng ta. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Con Người đến để cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18,11), và Ngài nhấn mạnh: “Cha của anh chị em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14). Có lẽ chúng ta chưa đủ tin nên mới thấy ngại. Tuy nhiên, đừng coi xưng tội chỉ là một nghi thức, vấn đề là thành tâm. Nghĩa là tội lỗi chúng ta có được Thiên Chúa tha thứ hay không là do chúng ta, vì “nhờ đức tin mà được cứu” (x. Mt 9,22; Mc 5,34; Mc 10,52; Lc 7,50; Lc 8,48; Lc 17,18; Lc 18,42) và “người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17). Biết vậy rồi thì đừng ngại gì hết!

3. Tôi không có thời gian và không thuận tiện.

Người muốn thì tìm ra phương tiện, người không muốn thì tìm ra lý do. Đó là loại triết lý dễ hiểu. Chúa Giêsu thiết lập chức linh mục để hối nhân có thể dễ dàng giao hoà với Thiên Chúa, đồng thời cũng để chúng ta có Chúa ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Có những xứ có linh mục giải tội hằng ngày trước hoặc sau giờ phụng vụ, có những nhà dòng giải tội cả sáng và chiều các ngày trong tuần. Như vậy, nếu không tiện giờ này thì xưng tội giờ khác, không tiện ở nơi này thì xưng tội ở nơi khác. Có nhiều nơi để chọn lựa, đừng viện cớ mà biện hộ cho sự lười biếng của mình. Chúa luôn mong chờ tội nhân ăn năn sám hối, vì Ngài sẵn sàng bỏ 99 con chiên ngoan mà đi tìm 1 con chiên lạc (x. Mt 18,12-14; Lc 15,4-7). Chúng ta có thời gian rảnh rỗi hoặc làm những thứ khác, sao lại không có thời gian giao hoà với Thiên Chúa?

4. Tôi không có tội trọng nên không cần xưng tội.

Có những vị thánh xưng tội hằng ngày. Đã đành chỉ phải xưng những tội trọng, nhưng đó là “điều kiện ắt có và đủ”. Đối với những tâm hồn đạo hạnh, tội nhẹ cũng khiến người ta cảm thấy “xa cách” Thiên Chúa. Tội trọng là những tội “nặng ký” thì dễ hiểu và dễ thấy, nhưng nhiều tội nhẹ cũng có thể làm tăng trọng lượng. Hãy tưởng tượng tội nhẹ như trái bong bóng hoặc nắm bông, một vài trái bóng hoặc một vài nắm bông không thấm vào đâu, nhưng nhiều trái bóng hoặc nhiều nắm bông có thể làm thay đổi trọng lượng rất rõ. Một bên là 1kg sắt và một bên là 1kg bông, có người có thể nghĩ ngay là sắt nặng hơn, nhưng thực sự hai bên bằng nhau vì đều là 1kg. Không thể nói hết thần học về tội lỗi, nhưng có những thứ tội “nổi cộm” như làm tổn thương người khác, tự dễ dãi với mình với những tư tưởng xấu, xem phim ảnh “đen”, bỏ lễ Chúa Nhật, kiêu ngạo, tự ái thái quá, lạm dụng Thánh Danh Chúa, từ chối bác ái với người nghèo… Nhiều thứ trong số đó có thể là tội trọng hoặc biến thành tội trọng. Tục ngữ cổ nói: Nemo judex in sua causa (không ai là thẩm phán trong vụ án của chính mình). Chúng ta thường không thấy cái xà trong mắt mình mà lại thấy cái rác trong mắt người (x. Mt 7,3-5; Lc 6,41-42). Ca dao ViệtNam cũng có câu:

Chân mình còn lấm bê bê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.


Thật là nhiêu khê! Nhưng đừng lấy cớ “tôi không có tội trọng” mà thoái thác. Xưng tội thường xuyên (hằng tuần hay hằng tháng) là động thái khiêm nhường, đem lại lợi ích cho chúng ta là nhận lãnh thêm hồng ân và tránh được dịp tội trong tương lai.


5. Tôi không biết xưng tội gì.

Ngày nay, đây là vấn đề phổ biến, vì việc đào tạo luân lý trong văn hoá của chúng ta, thậm chí cả những người Công giáo, không được chú trọng và có vẻ mơ hồ. Vả lại, ngày nay người ta muốn loại bỏ Chúa ra khỏi cuộ đời mình nên không còn cảm giác tội lỗi. Nếu thẳng thắn và nghiêm túc xét mình thì chúng ta sẽ thấy mình phạm nhiều tội hằng ngày. Vì không xét mình rõ ràng nên mới cảm thấy “không có tội gì để xưng”. Cơ bản là xét mình theo Mười Điều Răn và Sáu Điều Răn Hội Thánh, nếu cần thì dùng Kinh Thánh - chẳng hạn đoạn Kinh Thánh này:

Vậy anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: đó là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam, mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng. Chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ không vâng phục. Chính anh em xưa kia cũng ăn ở như thế, khi anh em còn sống giữa những người ấy. Nhưng nay, cả anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái đó: nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thoá mạ, ăn nói thô tục. Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu. Vậy không còn phải phân biệt Hy Lạp hay Do Thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người. Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân. Ước chi lời Đức Kitô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha (Cl 3,5-17).

Chắc hẳn chúng ta không thấy “thoải mái” khi đọc những đoạn Kinh thánh như vậy, do đó mà cảm thấy… ngại xưng  tội! Chúa Giêsu nói: “Ai phạm tội là làm nô lệ cho tội” (Ga 8,34). Không ai muốn mình làm nô lệ cho người khác, huống chi là làm nô lệ cho tội lỗi!

Vậy hãy quyết tâm dành thời gian đi xưng tội, càng sớm càng tốt. 

Hãy quyết tâm sống Mùa Chay theo lời Thánh Phaolô: Chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người. Quả thật, Chúa nói: “Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ”. Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ (2 Cr 5,20-21; 6,2).

Đến với Bí tích Hoà Giải là đến với Tình Yêu của Thiên Chúa, đến ản náu trong Thánh Tâm Chúa Giêsu, được tắm gội trong Nguồn Hồng Ân của Lòng Chúa Thương Xót. Đừng chần chừ, đừng lần lữa, vì “thời giờ đã gần đến!” (Kh 1,3; 22,10). Nếu chúng ta “hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, Chúa sẽ mửa chúng ta ra khỏi miệng Ngài” (x. Kh 3,16).

Saigon – Mùa Chay 2012

Trầm Thiên Thu

Thông điệp Đức Mẹ ngày 25/2/2012






Thông điệp Mẹ Mễ Du ngày 25/2/2012 qua thị nhân Marija


"Các con yêu dấu,

Vào thời điểm này, trong một cách đặc biệt Mẹ kêu gọi các con: 'hãy cầu nguyện với trọn con tim'. Các con nhỏ ơi, các con nói nhiều và cầu nguyện quá ít. Hãy đọc và suy gẫm trong Thánh Kinh, và xin những Lời viết trong đó là sự sống cho các con. Mẹ khích lệ và yêu thương  các con, để rồi trong Thiên Chúa các con có thể tìm thấy bình an và niềm vui cuộc sống của mình. Cám ơn các con đã đáp lại lời kêu gọi của Mẹ".

Message to Marija on February 25, 2012

“Dear Children!

At this time, in a special way I call you: 'pray with the heart'. Little children, you speak much and pray little. Read and meditate on Sacred Scripture, and may the words written in it be life for you. I encourage and love you, so that in God you may find your peace and the joy of living. Thank you for having responded to my call".

Kính Mừng MARIA

Chiến dịch Cầu Nguyện (10): Mang ngọn lửa của tình yêu Ngài





“Xin Chúa Giêsu mến yêu giúp con không sợ hãi, nhờ danh Ngài, để mang ngọn lửa tình yêu mến Ngài xuyên suốt các quốc gia. Xin cho chúng con, con cái của Ngài, sức mạnh để đối diện với sự lộng hành mà chúng con sẽ phải đối diện giữa tất cả những người không phải là tín hữu thật nhờ Lòng Chúa Thương Xót. Amen”.

Chiến dịch Cầu Nguyện (9): Dâng đau khổ lên như món quà


“Lạy Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu, xin dạy cho con biết chấp nhận sự xỉ nhục trong Danh Thánh Ngài khi con tuyên xưng Lời Ngài với lời cảm tạ khiêm nhu. Xin dạy cho con hiểu biết như thế nào là nhục nhã, đau đớn, và thống khổ và mang con đến gần với Thánh Tâm Chúa. Xin cho con chấp nhận những thử thách với tình yêu và lòng quảng đại trong tinh thần để con có thể dâng chúng lên như những món quà đặc biệt cho Chúa để cứu các linh hồn”.

Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2012

Chiến dịch Cầu Nguyện (8): Xưng tội


Ta là Chúa Giêsu là Vua và Đấng Cứu Thế, giờ đây Ta trình bày kinh nguyện để xưng tội. Kinh này phải được cầu để nài xin lòng khoan dung hầu tha thứ tội lỗi trong và sau cuộc Cảnh Cáo.
“Lạy Chúa Giêsu rất mến yêu, con nài xin ơn tha thứ vì tất cả những tội lỗi, sự đau đớn và thương tích con đã gây ra cho người khác. Con khiêm tốn cầu xin ơn để tránh xúc phạm đến Ngài lần nữa và để dâng việc đền tội thể theo Thánh Ý tối cao của Ngài. Con nài xin ơn tha thứ cho bất kỳ sự xúc phạm nào trong tương lai mà con có góp phần trong đó và những gì khiến cho Ngài đau đớn và thống khổ. Xin đem con về với Ngài trong thời đại Bình An để con được trở nên thành phần trong gia đình Ngài luôn mãi. Con yêu mến Chúa Giêsu. Con cần Ngài. Con tôn vinh Ngài và mọi sự Ngài tranh đấu cho. Xin Chúa Giêsu giúp con để con xứng đáng được vào Vương Quốc của Ngài”.

Đấng Cứu Thế của các con,
Chúa Giêsu Kitô. 

Chiến dịch Cầu Nguyện (7): Cầu cho những người khước từ Lòng Thương Xót


Con gái yêu dấu, sự trở lại của Ta để cứu nhân loại một lần nữa trước cuộc phán xét cuối cùng đã đến gần. Niềm vui của Ta nhuốm đau thương sâu sắc vì những linh hồn sẽ từ khước Lòng Thương Xót của Ta. Hỡi con, con gái Ta phải chiến đấu với đoàn quân của Ta cho những người con thân yêu của Thánh Giá để cứu những linh hồn này. Đây là kinh nguyện họ phải đọc để cầu xin Lòng Thương Xót cho các linh hồn trong bóng tối.
“Lạy Chúa Giêsu, con nài xin Ngài tha thứ cho các tội nhân linh hồn thật tăm tối, những người sẽ từ chối ánh sáng của Lòng Chúa Thương Xót. Xin Chúa Giêsu tha thứ cho họ, con nài xin Ngài, hãy cứu họ khỏi tội lỗi mà họ thấy thật khó khăn để thoát ra khỏi đó. Xin đổ tràn đầy trong tim họ tia sáng của Lòng Thương Xót và cho họ cơ hội để trở về với đàn chiên Chúa”.

Chúa Giêsu yêu dấu của các con.

Chiến dịch Cầu Nguyện (6): Cầu xin để chấm dứt tên Phản Chúa


“Lạy Chúa Giêsu, con cầu xin nhờ Lòng Thương Xót của Chúa, xin hãy ngăn cản tên Phản Chúa và đoàn quân xấu xa của hắn gây thử thách kinh hoàng và phiền nhiễu cho con cái Ngài. Con cầu xin để chúng sẽ bị chấm dứt và cánh tay của cuộc trừng phạt sẽ được bác bỏ nhờ sự hoán cải đạt được trong cuộc Cảnh Cáo”.

Chiến dịch Cầu Nguyện (5): Cầu nguyện với Chúa là Đấng Tối Cao



Hỡi con gái, thế giới phải đọc kinh nguyện đặc biệt này để ca ngợi và cảm tạ Chúa Cha vì Lòng Thương Xót Ngài ban cho toàn thể thế giới.

“Lạy Cha Hằng Hữu, chúng con xin dâng lời cầu nguyện trong niềm hân hoan, để tạ ơn Ngài vì món quà đặc biệt là Lòng Thương Xót cho toàn thể nhân loại. Chúng con vui sướng và dâng lên Cha Vị Vua Tối Cao Vinh Quang lời ca ngợi và lòng sùng kính vì tình yêu và Lòng Thương Xót của Cha. Cha là Đấng Tối Cao và là Vua, với món quà này giờ đây Cha mang đến chúng con những kẻ ở dưới chân Chúa trong sự khiêm nhường quy phục. Xin Chúa ban Lòng Thương Xót xuống trên toàn thể con cái Ngài”.

Chúa Giêsu của các con.

Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2012

Chiến dịch Cầu Nguyện (4): Sự Hiệp Nhất của tất cả các gia đình


Hỡi con gái, kinh nguyện này quan trọng vì nó sẽ giúp gìn giữ các gia đình để họ có thể duy trì sự hiệp nhất trong Vương Quốc Địa Đàng Mới trên trái đất.

“Lạy Chúa Giêsu xin hiệp nhất tất cả các gia đình trong lúc Cảnh Cáo (warning) để họ nhận được ơn cứu độ đời đời. Con cầu xin cho mọi gia đình duy trì được sự hiệp nhất với Chúa Giêsu để họ sẽ được thừa hưởng Thiên Đàng Mới trên Trái Đất”.

Đấng Cứu Thế yêu dấu của các con,
Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại,
Chúa Giêsu Kitô.

Chiến dịch Cầu Nguyện (3): Thoát khỏi thế giới sợ hãi



Con gái yêu dấu của Cha, bây giờ Cha cung cấp cho các con kinh nguyện để thoát khỏi thế giới sợ hãi.

“Lạy Chúa Giêsu Kitô, con nài xin Chúa giải thoát con khỏi thế giới sợ hãi vốn tách rời các linh hồn khỏi lòng yêu mến Chúa. Con cầu xin cho các linh hồn sẽ nghiệm thấy thật sự sợ hãi trong cuộc Cảnh Cáo sẽ chấm dứt và cho phép Lòng Thương tràn ngập linh hồn để họ sẽ được tự do yêu mến Chúa như cách thức mà họ nên làm”.

Đấng Cứu Thế yêu dấu của các con,
Chúa Giêsu Kitô. 

Chiến dịch Cầu Nguyện (2): Cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo toàn cầu



Con gái yêu dấu của Cha, hôm nay Cha thúc giục những kẻ theo Cha dâng kinh nguyện này để cứu những người con tội nghiệp bị làm cho khổ đau day dứt bởi các nhà lãnh đạo của chính quốc gia họ, những người bị áp bức bởi thế lực toàn cầu, không phải của Chúa.

“Lạy Cha Hằng Hữu, trong Danh Thánh của Con Yêu Dấu Cha là Chúa Giêsu Kitô, con xin Cha bảo vệ con cái Cha khỏi sự hành hạ dưới âm mưu của thế lực toàn cầu chống lại những quốc gia vô tội. Con cầu xin ơn tha thứ tội lỗi cho các linh hồn gây nên sự khó khăn gian khổ để họ biết quay về với Cha với tấm lòng khiêm nhường và ăn năn. Xin ban cho những con cái chịu tra tấn sức mạnh để chịu đựng những khổ đau ngõ hầu đền bù tội lỗi cho thế giới, nhờ Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.”.

 

Mong manh

[caption id="attachment_3183" align="aligncenter" width="480" caption="“Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài...”"][/caption]

Phù vân quả là phù vân, tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1,2).


Lại một Mùa Chay nữa đang về. Nghi thức khai mạc Mùa Chay mang ấn tượng đặc biệt qua việc xức tro trên đầu các tín hữu. Những thực hành đạo đức của Mùa Chay như sám hối, cầu nguyện, bác ái, chay tịnh đều nhằm nhắc chúng ta nghĩ về thân phận mỏng giòn của kiếp người.

Một năm vừa qua đi được đánh dấu bằng biết bao sự kiện vui buồn. Có những niềm vui của chiến thắng, thành công. Có những nỗi buồn của tan vỡ, thất bại. Mỗi người tự do lượng giá những gì đã xảy ra. Với cái nhìn đức tin, các tín hữu có thể đón nhận những sứ điệp Chúa nhắn gửi cho nhân loại. Nhìn lại năm đã qua, người viết mời quý Độc giả cùng suy tư về hai chữ “mong manh”, phần nào gồm tóm “sự đời” đã và đang diễn ra.

1. Sự mong manh của quyền lực

Năm 2011 chứng kiến sự sụp đổ của một loạt các nhà độc tài trên thế giới:

– Khởi đi từ sự kiện một anh bán rau trên hè phố tự thiêu vì bị cảnh sát chèn ép, một cuộc cách mạng mang tên “Cách mạng Hoa Nhài” đã ra đời tại Tunisia. Người thanh niên tự thiêu ngày 17-10-2010 có tên là Mohamed Bouazizi. Mục đích của anh nhằm phản kháng việc cảnh sát cấm anh bán hàng trên đường phố. Công chúng tức giận và bạo lực gia tăng sau cái chết của Bouazizi. Tổng thống Zine El Abidine Ben Ali của Tunisia, một nhà độc tài, đã phải từ chức ngày 14-1-2011, sau 23 năm nắm quyền.

– Ngày 11-2-2011, ông Hosni Mubarak từ chức sau 30 năm ở cương vị Tổng thống Ai Cập. Hàng triệu người dân đã đổ ra đường phố và hô vang khẩu hiệu “Ai Cập tự do”. Bầu không khí lễ hội hiện diện tại hầu như mọi con đường, khu phố khắp nước. Biến cố này đưa lịch sử đất nước sang một trang mới. TừNew York(Mỹ) cho đếnLondon(Anh), nhiều người Ai Cập cũng chào đón một kỷ nguyên “hậu Mubarak”.

– Ngày 1-5-2011, tin thủ lãnh Al-Qaeda Bin Laden bị sát hại đã được loan đi. Sinh thời, nhân vật “trùm khủng bố” này đã trở thành nỗi ám ảnh của nước Mỹ, kể từ khi toà Tháp đôi tại New York bị đánh sập vào ngày 11-9-2001. Tin này được Nhà Trắng xác nhận vào lúc 7 giờ ngày 1-5. Vì những lý do chính trị, ông Bin Laden đã được thuỷ táng. Nghi thức thuỷ táng được thuật lại như sau: “Xác ông được trùm vải trắng và đặt trong một cái túi chứa vật nặng để cho chìm hẳn xuống đáy biển. Miệng túi được cột rất chặt. Cái túi được cho trượt xuống biển bằng một tấm ván. Lúc đó là 6 giờ (giờ quốc tế) tức khoảng 12 giờ sau khi Bin Laden chết. Toàn bộ diễn biến lễ thuỷ táng kéo dài khoảng 50 phút” (trích từ trang WEB “Tin tức 24 giờ”, ngày 5-5-2011).

– Sau 42 năm trên vị trí lãnh đạo quốc gia Lybia, Đại tá Gadhafi đã bị giết ngay tại quê hương của mình là thành phố Sirte. Khi nghe tin này, hàng loạt xe hơi trên đường phố tạiTripoliđã đồng loạt kéo còi kèm theo tiếng súng bắn chỉ thiên để ăn mừng. Gadhafi bị lật đổ hồi tháng 8-2011, trong làn sóng nổi dậy lan khắp thế giới Ảrập. Toà án hình sự quốc tế (ICC) cũng đã phát lệnh bắt Gadhafi vì các cáo buộc tội ác chống lại loài người.

Một vài trường hợp điển hình trên đây cho thấy quyền lực trần thế thật là mong manh. Có những người ở vị trí lãnh đạo một quốc gia trong suốt gần nửa thế kỷ. Nếu họ là những bậc minh quân, thì quốc gia ấy được hưởng biết bao điều tốt lành. Nếu họ là những người độc tài, quốc gia ấy phải gánh chịu những hậu quả vô cùng thảm hại. Khi ở địa vị “thế thiên hành đạo” mà họ không biết đặt ích lợi của người dân làm đầu thì ngai vàng của họ sẽ bị lung lay và sụp đổ. Với danh nghĩa “công bộc của dân” mà không biết lo lắng cho dân được hạnh phúc thì chiếc ghế của họ cũng không thể tồn tại lâu dài. Có người nói: “Quyền lực giống như cát trong lòng bàn tay. Càng xiết chặt, cát càng chảy tuột, nếu nhẹ nhàng, cát vẫn còn đó”. Trước toà Philatô, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài...” (Ga 19,11). Mọi quyền năng từ Trời mà đến, nhưng một khi không thuận ý Trời, thì quyền năng ấy sẽ bị lụn bại. Mọi chức vụ đều nhằm làm đẹp ý dân, nhưng một khi không còn mang lại cho dân hạnh phúc, thì chức vụ ấy sẽ thành vô nghĩa.

2. Sự mong manh của những tiến bộ kỹ thuật

– Người dân Hoa Kỳ, nhất là những ai cư ngụ ở thành phố New York, đã có một thời tự hào về Trung tâm Thương mại Thế giới (World Trade Center), nổi bật với Toà tháp đôi gồm 110 tầng, được kiến trúc sư người Mỹ gốc Nhật Minoru Yamasaki thiết kế. Khởi công từ 1966 và khánh thành vào 4-3-1973, nó vượt qua chiều cao của Toà Empire State lịch sử, trở thành toà nhà cao nhất thế giới. Ấy vậy mà biểu tượng của niềm tự hào này đã bị tan thành mây khói trong vòng vài phút, trong trận khủng bố do hai chiếc phi cơ Boeing đâm vào, ngày 11-9-2001. Toà tháp đôi sụp đổ đã mang theo sinh mạng của khoảng 4.000 người. Du khách đếnNew Yorkhôm nay chỉ còn nhìn thấy một khu đất hoang tàn, với những phế tích còn lại của Tháp đôi và những dòng chữ tưởng niệm các nạn nhân vô tội do trận khủng bố dã man này.

– Nước Anh và nước Pháp đã từng đi đầu trong công nghệ sản xuất máy bay với chiếc Concorde, là máy bay chở khách siêu âm thương mại thành công nhất. Bay thử lần đầu năm 1969, Concorde bắt đầu được đưa vào phục vụ năm 1976 và có thời gian hoạt động dài 27 năm. Chiếc máy bay này được mang danh là “Chú chim trắng trên bầu trời”, và đã lập được nhiều kỷ lục, gồm thời gian bay 2 giờ, 52 phút và 59 giây giữa New York và London, ngày 7-2-1996. Mặc dù được đánh giá ở mức kỹ thuật hoàn hảo tuyệt đối, ngày 25-7-2000, máy bay Concorde đã gặp phải một tai nạn tại Gonesse, Pháp. Vụ tai nạn đã làm thiệt mạng 100 hành khách và 9 thành viên phi hành đoàn trên khoang cùng 4 người dưới mặt đất. Đây là vụ tai nạn nghiêm trọng đầu tiên và duy nhất của loại máy bay này. Sau vụ khủng bố tại New York ngày 11-9-2001, Concorde đã được cho ngừng hoạt động ngày 24-10-2003, chuyến bay “về hưu” diễn ra ngày 26-11 năm ấy. Niềm tự hào của những ai đã tạo ra “chú chim trắng trên bầu trời” dần đi vào dĩ vãng.

– Những ngày đầu năm 2012 này, thế giới kinh hoàng khi nghe tin chiếc tàu du lịch hiện đại và khổng lồ của Italia gặp nạn. Chiếc tàu này mang tên giống như chiếc máy bay Concorde. Tên đầy đủ của nó là Costa Concordia. Con tàu trị giá 750.000 Mỹ Kim đã gặp nạn ngày 14-1-2012 ở khu vực đảo Giglio, miền Tuscany, Italia. Tàu Concordia có trọng lượng 114.500 tấn, đang chở 4.200 hành khách, đã va vào đá ngầm. Biến cố này được giới báo chí gọi là “Tàu Titanic Italia”. Một điều trùng hợp kỳ lạ là sự kiện này xảy ra sau đúng 100 năm, kể từ khi con tàu Titanic gặp nạn. Chiếc tàu Titanic chuyên chở 2.201 hành khách đã bị đắm ngày 15-4-1912 làm thiệt mạng hơn 1.500 người.

Những trường hợp điển hình được nêu trên đây cho thấy dù mạnh mẽ đến đâu, thì khoa học kỹ thuật cũng không bao giờ được coi là hoàn hảo. Dù tối tân hiện đại đến mức nào, thì con người cũng không thể coi những sáng chế tinh vi là tối thượng. Khi đã đạt tới đỉnh cao của công nghệ, người ta bị cám dỗ khước từ Thiên Chúa, thậm chí còn có người báng bổ tự cho mình có thể thay thế Thiên Chúa. Họ tự cho mình có thể làm được mọi sự. Theo họ, Thiên Chúa đã trở thành một nhân vật của huyền thoại, hoặc giả nếu Ngài có hiện hữu thì Ngài cũng không phải là Đấng Toàn Năng. Thấy rõ được nguy cơ này, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã viết trong Tự sắc về Năm Đức Tin như sau: “So với quá khứ, đức tin ngày nay đang phải chịu một loạt những vấn nạn đến từ não trạng thay đổi, đặc biệt là ngày nay não trạng này thu hẹp lĩnh vực những điều chắc chắn hợp lý vào lĩnh vực những chinh phục của khoa học và kỹ thuật”. Tuy vậy, vị Cha chung của Giáo Hội khẳng định với chúng ta: “Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng giữa đức tin và khoa học chân chính không hề có xung đột, vì cả hai đều hướng về sự thật, tuy bằng những con đường khác nhau” (Tự sắc Porta Fidei, số 12).

3. Sự mong manh của kiếp người

Ngẫm về sự mỏng manh của kiếp người, tác giả Thánh vịnh đã thốt lên:

Kiếp phù sinh tháng ngày vắn vỏi,

tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,

 một cơn gió thoảng là xong,

chốn xưa mình ở cũng không biết mình”. (Tv 103,15-16)

Những phát minh khám phá trong lĩnh vực y khoa, dù rất hiện đại, cũng không thể kéo dài cuộc sống của con người trên cõi dương gian. Kiếp người vẫn mỏng giòn, sớm nở chiều tàn, như đoá phù dung.

 Mong manh giữa sự sống và sự chết. Mỗi năm, cả nước có đến trên chục ngàn người chết vì tai nạn giao thông, hàng ngàn người chết do tai nạn lao động. Tình trạng ngộ độc thực phẩm ngày càng nghiêmtrọng đã và đang cướp đi sinh mạng của biết bao người. Có nhiều người còn trẻ đã phải vĩnh viễn ra đi. Biết bao sáng kiến, biết bao quy định, nhưng số người chết vẫn không giảm. Đã nhiều người lên tiếng, nhưng xem ra tình trạng này chưa được cải thiện. Người dân đành phải sống theo kiểu “ai có thân người ấy lo”. Những điều trên đây cho thấy kiếp người thật mong manh, nay còn, mai mất. Mỗi khi ra đường là lo lắng, chỉ khi về tới nhà mới chắc là mình được an toàn.

– Mong manh giữa cái thiện và cái ác. Chỉ một chút nóng giận cũng cướp đi một mạng sống. Chỉ một lý do đơn giản cũng làm mất một cuộc đời. Có những người suốt đời chân chất, ăn ở hiền lành, vậy mà một giây phút không làm chủ được bản thân đã trở thành kẻ giết người. Xã hội hôm nay cho thấy ranh giới giữa thiện và ác thật mong manh. Hậu quả là vợ đốt chồng, con giết cha. Xã hội khá nhiều những người con “nghịch tử”. Sự bất hiếu có nguyên nhân muốn đặt lợi lộc vật chất làm ưu tiên hàng đầu. Xã hội đưa ra nhiều phong trào, nhưng chỉ giống như “ném gạch giữa ao bèo”. Giáo Hội phát động nhiều chiến dịch, nhưng chỉ như “muối bỏ biển”. Liều thuốc có hiệu quả chắc chắn phải là sự cải hóa nội tâm. “Tâm bình, thế giới bình”, chỉ một khi con người có lương tâm ngay thẳng, chân thành hướng thiện, lúc đó họ mới có thể góp phần xây dựng một cuộc sống an bình.

 Mong manh giữa khôn và dạiGần đây, thành phần những người phải ra trước vành móng ngựa càng ngày càng đa dạng. Họ là quan chức cao cấp, là người mẫu, là diễn viên điện ảnh, là chủ khách sạn, là người cha người mẹ, là trẻ vị thành niên. Ai cũng hối hận nhưng đã quá muộn màng. Trước khi bị bắt, ai cũng nghĩ mình khôn. Sau khi vào tù, mới ngỡ ra mình dại. Những người đang khôn, bỗng trở thành dại trong chốc lát, vì tham vọng, ghen tương và vì loá mắt trước những cám dỗ vật chất. “Vàng là vật chất toả sáng, nhưng không phải bất cứ thứ gì toả sáng đều là vàng”. Nhiều người ngẫm ra điều ấy thì thấy mình đã quá dại dột. Làm sao biết mình khôn thực sự? Tác giả Thánh vịnh trả lời: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan” (Tv 111,10). Thực thế, khôn ngoan theo kiểu người đời sẽ làm con người hư mất. Khôn ngoan trong ơn nghĩa Chúa sẽ đem lại cho con người vinh quang. Vị Tông đồ dân ngoại cũng đã đúc rút kinh nghiệm quý báu đó cho chính mình: “Chúng tôi không sống theo lẽ khôn ngoan người đời, nhưng theo ân sủng của Thiên Chúa” (2 Cr 1,12).

Thì ra trong “cõi người ta”, cái gì cũng chỉ là tương đối. Quyền lực, danh vọng và của cải chỉ có ý nghĩa khi nó nhằm phục vụ ích chung. Quyền lực được lâu bền nhờ tinh thần phục vụ, thân thế được lưu danh nhờ biết sống vì tha nhân. Đức Giêsu đã nói về quyền lực: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”. Đức Giêsu đã áp dụng triết lý sống này nơi bản thân Người: “Con Người đến không phải được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,25-28). Khái niệm “lãnh đạo là người phục vụ” của Tin Mừng đã ảnh hưởng sâu sắc tới nền văn hóa của các nước có truyền thống Kitô giáo.

Khi nhận ra sự mong manh của cuộc đời, chúng ta không bi quan chán nản trước những bất toàn. Khi thấy rõ giới hạn của con người trần thế, chúng ta vươn tới Đấng toàn năng cao cả. Vâng, Thiên Chúa là Đấng trung thành. Ngài luôn hướng dẫn cuộc đời chúng ta và trả công cho chúng ta theo như chúng ta đối xử với anh chị em mình.

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên


Nguồn: WHĐ

Dân Thành Athènes

[caption id="attachment_3176" align="aligncenter" width="450" caption=""Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ""][/caption]

Ngày kia, triết gia Esopos người Hy Lạp ngồi bên vệ đường trước cổng thành Ethènes. Một người khách lạ tình cờ đi qua dừng lại hỏi ông như sau: "Dân thành Athènes như thế nào?".

Triết gia bèn trả lời: "Xin ông cho tôi biết ông đến từ đâu và dân tình ở đó như thế nào?". Người khách lạ nhíu mày cằn nhằn: "Tôi đến từ Argos và dân Argos toàn là một lũ người láo khoét, trộm cắp, cãi cọ suốt ngày".
Một cách bình thản, triết gia Esopos mỉm cười đáp: "Tôi rất lấy làm buồn để báo cho ông biết rằng rồi ra ông sẽ thấy dân thành Athènes còn tệ hơn thế nữa".

Ngày hôm sau, một người khách lạ khác đi qua và cũng dừng lại đặt một câu hỏi: "Dân thành Athènes như thế nào?". Người khách lạ ấy cũng cho biết mình đến từ Argos là nơi mà ông cho là quê hương yêu dấu mà ông buộc lòng phải rời xa, bởi vì dân chúng Argos là những người rất dễ thương, dễ mến...


Lần này, triết gia Esopos cũng biểu đồng tình với người khách lạ như sau: "Này ông bạn đáng mến, tôi rất vui mừng cho ông biết rằng ông sẽ nhận thấy dân thành Athènes cũng dễ thương dễ mến như thế".

Câu chuyện mang tính cách ngụ ngôn trên đây muốn nói với chúng ta rằng cách thẩm định người khác tùy thuộc ở tình cảm của mỗi người. Cùng một con người ấy, cùng một khung cảnh ấy, nhưng có người ưa, có kẻ chê. Sự khác biệt trong cách thẩm định ấy thường không nằm trong người khác hoặc cảnh vật khác, mà chính là ở tâm trạng của mỗi người. Thi sĩ Nguyễn Du đã có lý khi bảo rằng: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".

Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để có cái nhìn lạc quan về các biến cố và con người, nghĩa là chúng ta được mời gọi để luôn có cái nhìn tích cực về người khác và các biến cố. Một thất bại rủi ro xảy đến ư? Người Kitô hãy cố gắng khám phá ra những đường nét dễ thương dễ mến trong khuôn mặt, trong cách cư xử của người đó. Chúng ta hãy làm như loài ong: từ giữa bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, loài ong chỉ rút ra toàn mật ngọt...

Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 đã ghi trong nhật ký của Ngài như sau: "Do bản chất, tôi vui vẻ và sẵn sàng chỉ thấy những khía cạnh tốt đẹp của sự vật và con người hơn là phê bình chỉ trích và đưa ra những phán đoán độc hại... Mỗi một cử chỉ khiếm nhã đối với bất cứ ai, nhất là những người nghèo hèn, thấp kém, hoặc bất cứ một chỉ trích phá hoại nào, đều làm cho tôi đau lòng".

 Nguồn: RVA

Các lỗi nhỏ mọn là mồi lửa bén nhạy trong Luyện Ngục

[caption id="attachment_3170" align="aligncenter" width="385" caption="Quyết sẽ không phạm một tội gì, dù một tội nhẹ, và quyết sẽ xa lánh cả hình bóng tội nhẹ"][/caption]

1) Thánh Mađalêna Padi, ngày kia, thấy hiện về một nữ tu vừa khuất bóng, huy hoàng trong ánh sáng chan hoà trời cao. Chỉ trừ đôi tay nàng không rực sáng, vì phải đền một đôi khuyết điểm về lời khấn thanh bần.

Cũng hiện về với bà một thiếu nữ, bận một áo rực lửa nóng bừng và một áo choàng hoa huệ. Áo lửa là hình phạt khoe khoang và măng tô hoa huệ là phần thưởng trinh khiết.

2) Một cha dòng Đaminh hiện về cho một cha Đaminh khác ở Cologne. Trang  phục sức tuyệt diệu và đội một triều thiên vàng.

Hỏi và biết được ý nghĩa những trang sức: tiên biểu các Linh Hồn ngài đã giảng dạy và được ơn cứu độ, còn vương miện vàng là phần thưởng trung thành tuân giữ luật dòng. Tuy nhiên, ngài cho biết còn phải đau khổ ê chề trong Luyện Ngục vì đã nói một đôi lời vô ích, và chỉ cái lưỡi mới chịu hành hạ.

3) Cha Phanxicô Condaga, Giám mục Măngta thuật rằng ở đảo Canari, trong dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm có chân phước Gioan Via là gương mẫu, bị trọng bệnh.

Thầy nhà tập Átxăngxiô được uỷ thác săn sóc ngài. Thầy cũng là nhà tu đắc đạo.

Cha Gioan chết thật thánh thiện. Thầy tập sinh khi đã dự tang chế, rút lui để cầu nguyện luôn năm ba ngày cho hồn cha Gioan chóng siêu độ.

Một tối kia, trong khi cầu nguyện, thầy bỗng thấy một cha dòng Phanxicô đầy hào quang rực rỡ. Rồi không thấy gì nữa. Hiện tượng lạ tái diễn. Thầy tập sinh, mất hồn, không dám hỏi.

Tuy nhiên, đến lần thứ ba, thầy đánh bạo hỏi hồn về: “Ông là ai? Vì sao hiện về đây luôn như vậy? Nhân danh Thiên Chúa, xin ông cho biết ý nghĩa như thế nào?”.

  Hồn đáp: “Tôi là hồn của thầy Gioan Via, mang ơn thầy nhiều, vì thầy đã săn sóc và cầu nguyện cho tôi. Tôi đến tìm thầy hay tôi được vào số những người hưởng vinh phúc muôn đời. Tuy nhiên, tôi còn chưa được xét đáng hưởng tôn nhan Chúa, vì phải đền một tội thiếu sót. Khi còn sống, tôi đã quên đọc một vài kinh cầu cho kẻ chết như đã buộc. Vậy khẩn khoản xin thầy đọc cho tôi để tôi được lên Thiên Đàng”.

 Thầy tập sinh liền chạy đến thuật ba thị kiến trên cho cha phụ trách, ngài chỉ thị cho các tu sĩ đọc các kinh đó.

Đọc xong, hồn lại hiện về cho thầy nhà tập, sáng chói hơn trước. Hồn cám ơn và hứa sẽ phù hộ thầy trên cõi trời. Rồi hồn chỉ hai cha có hào quang sáng chói tháp tùng hồn, hồn nói là thánh Phanxicô khó khăn và thánh Bécnađinô thành Xiêna đến đưa hồn về trời.

Thật khủng khiếp các hình phạt tội nhẹ! Chúng là mồi lửa bén nhạy thiêu đốt dai dẳng và rát rao ta trong Luyện Ngục. Ta phải cảnh giác ngay từ giờ phút này: quyết sẽ không phạm một tội gì, dù một tội nhẹ, và quyết sẽ xa lánh cả hình bóng tội nhẹ.

Lời Nguyện:

Lạy Chúa, xin thương xót đến phận hèn tôi tớ Chúa. Amen

Trích sách tháng các Linh Hồn

Thứ Năm, 23 tháng 2, 2012

Chiến dịch Cầu Nguyện 1: Món quà cho Chúa Giêsu là cứu các Linh Hồn



“Lạy Chúa Giêsu rất yêu mến, Đấng yêu thương chúng con thật nhiều, xin cho phép chúng con bằng cách thức khiêm nhường giúp cứu các linh hồn quý giá của Chúa. Xin thương xót tất cả các tội nhân bất kể họ đã xúc phạm đến Chúa nặng nề đến đâu. Xin cho phép chúng con qua việc cầu nguyện và đau khổ giúp đỡ cho các linh hồn không được sống sót qua cuộc Cảnh Cáo tìm được nơi chốn bên cạnh Chúa trong Vương Quốc của Ngài. Xin lắng nghe lời con cầu nguyện, ôi Chúa Giêsu dịu ngọt, để giúp Chúa chinh phục được các linh hồn mà Ngài mong mỏi. Ôi Thánh Tâm Chúa Giêsu, con cam kết trung thành với Thánh Ý Chúa luôn luôn”.

Đấng Cứu Thế của các con,
Chúa Giêsu Kitô. 

Sự chết - Một quy luật

[caption id="attachment_3150" align="aligncenter" width="420"] Tất cả mọi sự trên đời này đều có biên giới[/caption]

Sự chết chi phối mọi loài mọi vật. Đó là quy luật tất yếu. Không ai nằm ngoài vòng thống trị của sự chết. Sức mạnh vô địch của sự chết nằm ngay trong bản chất của mọi thụ tạo vật chất để định hướng cho nó. Không ai dám nghi ngờ điều này. Một sự thật rất hiển nhiên.

Sự vận hành của vũ trụ này tuân theo một quy luật nhất định. Nhờ có yếu tố thời gian mà người ta xác định được điều ấy. Đấng Tạo Hoá đã an bài và điều khiển sự vận hành trong trời đất. Đây là một điểm giáo lý quan trọng.

Cũng nhờ có yếu tố thời gian mà người ta biết mình phải chết. Người ta sẵn sàng chấp nhận nó trong trật tự theo định mệnh. Xem ra lối suy nghĩ hàm hồ mà thực tế người ta khó chấp nhận nó, nhất là trong thời đại khoa học tiến bộ ngày nay người ta muốn kéo dài sự sống, thậm chí muốn phục hồi nó nữa! Cái khát vọng ham sống tiềm tàng trong con người từ ngàn xưa rồi. Nhưng chưa có thứ thuốc trường sinh nào được bày bán trên các hiệu thuốc trần gian này cả!

Cái khát vọng chính đáng này chẳng qua chỉ là một tham vọng ích kỷ mà thôi. Nếu chúng ta có địa vị, có của cải mà xem, mấy ai muốn chết đâu? Chả là tham vọng ích kỷ đấy sao? Một sự giành giật lấy ưu thế cho mình khiến người ta không muốn chết. Ngược lại, nhiều khi đói khổ quá người ta xin trời cho chết quách cho xong. Phải chăng cái chết muốn nói lên quy luật vận chuyển luân hồi của kiếp người mà không ai được quyền hưởng thụ trần gian này mãi. Phải bỏ lại tất cả để ra đi cho kẻ đến sau được hưởng tiếp. Quả là phải có một sự an bài xếp đặt chứ.

Có một người đã rất đau khổ khi biết căn bệnh của mình sẽ dẫn đến sự chết nay mai, nhưng khi có một đứa con chào đời trong giai đoạn này, họ rất phấn khởi và sẵn sàng chờ chết! Bởi vì tương lai còn lại thì đã có đứa con tiếp tục. Sự lo âu xem chừng chẳng đi đến đâu nhưng có vẻ hợp lý. Nó muốn diễn tả những cái thuộc về sở hữu là những cái có mang bộ mặt ích kỷ, là những cái khó dứt bỏ. Đối với thân xác con người cũng thế thôi. Chính vì vậy, nếu không có một quy luật rõ rệt cho nó thì nào ai muốn chết, nào ai muốn bỏ mọi sự mình có cho ai khác. Đây mới là điểm son của vấn đề. Nhưng là thực tại cũ rích.

Vượt lên trên nỗi khắc khoải lo âu về thân phận mình, con người dường như muốn thoát ra khỏi vòng kiềm chế của quy luật đào thải. Thế nhưng họ lại bị đụng chạm phải một sức mạnh quá lớn chụp xuống thân phận mình, một sức mạnh vô hình làm đảo lộn tất cả. Bên cạnh đó, nếu không kể hậu quả của tội lỗi, thì bản thân một thụ tạo vật chất có một tuổi thọ nhất định và trên phương diện khoa học người ta xác định được khi nào thì nó bị thay đổi hoặc tan rã. Phải chăng là một quy luật thông thường tồn tại trong thời gian, nhưng không phải là quy luật ngẫu nhiên. Giới hạn của thân phận người do một quy luật chi phối nói lên tính hữu hạn và là hữu hạn rất ngắn nữa của con người chúng ta. Còn cái vô hạn và vĩnh cửu ở đâu? Chính là cái đang chi phối tất cả và làm nên tất cả.

Thường chúng ta dễ cảm nghiệm được cái hữu hạn vì mình thấy được sự chấm dứt của nó. Còn cảm nghiệm được cái vô hạn và vĩnh cửu quả là khó khăn hơn nhiều. Nhưng có một điều giúp ta có được sự liên tưởng và suy tư là: tất cả mọi sự trên đời này đều có biên giới.

(Chúng ta không có điều kiện để nói chi tiết về vấn đề này). Riêng sự chết vạch ra một ranh giới rõ rệt. Ranh giới giữa sự sống và sự chết, ranh giới giữa hữu hạn và vô hạn, giữa hữu hình và vô hình, giữa di dịch và bất di dịch… Tất cả vẫn hàm chứa một bí ẩn đằng sau sự chết. Tất cả nằm trong một quy luật tổng thể do Thiên Chúa xếp đặt. Đó đây trong vũ trụ này chỉ bàng bạc chứ không hiển thị minh nhiên điều chúng ta so sánh. Vì vậy, khi nói sự chết phải xảy ra theo quy luật nghĩa là trong nội dung của cái chết muốn diễn tả một điều bí ẩn, điều thắc mắc của con  người về những ranh giới trên. Trong khuôn khổ của một thụ tạo chúng ta vẫn được quyền liên tưởng, mơ ước những điều cao siêu vượt sức mình nhưng thực tế đã không bao giờ thực hiện được, đấy cũng là ý nghĩa của sự chết muốn dạy người ta một quy luật muôn thuở về thân phận mình là kẻ bị chi phối.

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

Chiến thắng lòng tham

[caption id="attachment_3158" align="aligncenter" width="450" caption="“Còn tiền còn bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi”"][/caption]

Thông thường con người chúng ta thường hay ghen ghét, bất hoà, tranh chấp và có khi giết hại lẫn nhau vì những điều gì?

Thưa, về danh vọng và tiền tài. Ngay trong gia đình cũng có thể bị đảo lộn tất cả những nề nếp gia phong vì danh vọng và đồng tiền. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng, chồng ruồng bỏ vợ, anh em bạn hữu chém giết nhau cũng chỉ vì đồng tiền, bát gạo, và người ta cũng có thể chà đạp nhau, bất kể là thân hay quen, là bạn hữu xa gần chỉ vì một ngai vàng là địa vị, là quyền lực trong xã hội.

Thực vậy, có những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình mà hoá dại. Có những người vì quyền lực mà đánh mất tính người. Nhưng có lẽ, cái cám dỗ lớn nhất của con người qua mọi thời đại chính là đồng tiền, vì có tiền là có tất cả.

Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự, phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ, tình nghĩa thầy trò cũng không bằng ma lực của đồng tiền, như cha ông ta đã từng nói: “Còn tiền còn bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi”. Thật vậy, có biết bao kẻ đã bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất để tôn thờ vì thế dân gian mới có câu: “Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên - Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn”.

Ngày xưa, có người ở nước Tề thích vàng đến mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi chạy đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:

- Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như thế?

Anh ta trả lời:

- Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa. Trước mặt tôi, chỉ có vàng mà thôi.

Đồng tiền liền khúc ruột nên họ lao mình vào lửa, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, bất chấp mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, miễn sao vơ vét, vun quén về cho đầy túi tham của mình.

Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Marco nói về việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Vậy ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu điều gì? Thưa, ma quỷ đã tìm cách lôi kéo Chúa Giêsu quay lưng lại với Chúa Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu, Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho ma quỷ nhận ra rằng không có gì cao quý hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

Những cám dỗ mà ma quỷ tuy đã thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một sự so sánh, tính toán thiệt hơn và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma quỷ, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma quỷ đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại... Đó là những mối tội đầu đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và những người chung quanh.

Ở khởi đầu Mùa Chay khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta luôn phải sám hối và tin vào tình yêu của Chuá. Sám hối để nhận ra sự khiếm khuyết của mình mà cầu xin ơn Chuá bổ túc những thiếu sót của chúng ta. Sám hối để canh tân đời sống sao cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa. Sám hối để chúng ta nhận ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ hoàn thiện con người của mình nên thánh thiện tinh tuyền như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.

Lạy Chuá, Chúa đã dựng nên con giống hình ảnh Chúa. Xin cho con biết gìn giữ phẩm giá con người của mình bằng việc tránh xa những thói hư tật xấu, luôn nói không với tội lỗi và luôn giữ lòng trong sạch để xứng đáng nhìn xem Thiên Chuá. Amen.


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Mục đích và Ý nghĩa việc ăn chay kiêng thịt trong Giáo Hội Công Giáo




Theo gương Thầy Chí Thánh, chúng ta hãy ăn chay để vượt thắng cám dỗ và mỗi ngày một nên thánh thiện hơn




Ăn chay là hình thức đền tội của Cựu Ước và Tân Ước.
Chúa Giêsu giữ chay 40 đêm ngày để làm gương cho các tín hữu.
Trong GHCG, ăn chay kiêng thịt có mục đích và ý nghĩa như sau:


    1/ Bỏ mình, hãm mình, hi sinh, đền tội, dẹp tính mê ăn uống, đó là một trong 7 mối tội đầu (Thứ 5 Kiêng bớt chớ mê ăn uống).

    2/ Tỏ lòng Sám hối tội lỗi,

    3/ Thông cảm Sự Thương Khó của Chúa Kitô.

Mỗi người chúng ta, chẳng ai là không phải đền tội, tội đầy đầu trong tư tưởng, lời nói, việc làm sai, thiếu sót bỏ không làm việc tốt phải làm... "lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng".

Do đó, nếu Giáo Hội không buộc ăn chay kiêng thịt, thì tự mình cũng nên tìm cách hãm mình đền tội cách nhẹ ở đời này, hơn là để đền tội "cách nặng" trong Luyện Ngục đời sau!



* GHCG dạy ăn chay kiêng thịt bao nhiêu lần trong một năm?

     a-Giáo Hội toàn cầu chọn các  Thứ Sáu quanh năm làm ngày đền tội (GL khoản 1250), nhưng để tùy mỗi Giáo Hội địa phương xác định ăn chay kiêng thịt, Hội đồng Giám mục được chọn hình thức khác thay thế.

    b-Giáo Hội chỉ buộc các giáo dân toàn cầu ăn chay và kiêng thịt một năm  2 lần (Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh) (GL 1251).

    c-Cũng khoản 1251 này, Giáo Hội dạy: "Vào các ngày thứ sáu, nếu không trùng với ngày lễ Trọng, thì phải kiêng thịt hay kiêng một thức ăn khác theo Hội đồng Giám mục đã qui định (GL 1253)". 

* Mấy tuổi thì ăn chay, kiêng thịt?

- 18 tuổi trọn tới hết 59 là tuổi ăn chay (GL 1252).

14 tuổi trọn (không nói kết thúc, nghĩa là trọn đời) là tuổi kiêng thịt.(GL 1215)

 

* Cách ăn chay: Được ăn một bữa trưa no (nếu bữa trưa là bữa chính, thì bữa sáng và bữa chiều cũng được ăn ít hơn bữa trưa).

Phẩm và lượng đồ ăn tùy phong tục địa phương (Đức GH Phaolô VI, Tự Sắc về Đền tội Paenitemini ngày 17.2.1966).

Nhưng trong ngày chay không được ăn vặt như kẹo, bánh v.v.

Cần để ý đến tinh thần hy sinh, hãm mình, khắc khổ, tự chế. 


* Cách kiêng thịt:  Kiêng các thứ thịt loài vật máu nóng (loài có vú và chim) kể cả bộ lòng...

Nhưng được ăn trứng và các thứ biến chế từ sữa, được ăn những đồ gia vị, những thứ biến chế từ mỡ loài vật (Paenitemini 3,1).

Được ăn cháo lỏng có mùi thịt (meat gravy and sauces). (Catholic Alamnac 1989 Coi Abstinence).

 

* Được tha giữ chay:   

- Giáo Hội không buộc người không thể giữ những luật buộc như ăn chay, kiêng thịt. Giáo Hội tha chung cho những người sau: 

    a/Những người vì sức khỏe, bệnh nhân...

    b/Những người phải làm việc nặng nhọc,

    c/Những người nghèo khó vẫn khổ sở vì đói,

    d/Những người được cha xứ, Bề trên Dòng, Giám mục tha (GL 1245)

 

* Được tha kiêng thịt:

    a/ Tha chung Ngày Thứ Sáu gặp Lễ Trọng (GL 1251) (ví dụ lễ Thánh Cả Giuse trong mùa Chay 2010, nhưng nếu địa phương cứ giữ "kiêng thịt ", thì cứ theo địa phương).

    b/ Người vì sức khỏe, hay công việc nặng nhọc cần phải ăn thịt,

    c/ Người mà chủ nhà, chủ nhân, nhà thương không cho đồ ăn khác...

Ngoài ra, ai cần tha thì xin phép Linh Mục xứ, cộng đoàn nơi mình đang ở.

 

* Tại sao Giáo Hội buộc kiêng thịt mà lại cho ăn những món khác như tôm, cá, cua… đôi khi còn ngon và  đắt tiền hơn thịt nữa?

- Thông thường người ta từ nhỏ tới lớn thích ăn thịt hơn ăn cá.

Thịt thường thơm ngon hơn mùi đồ biển tanh tao (trừ người Do thái, cậu bé khi đi theo cha mẹ nghe Chúa giảng, cũng đem 5 chiếc bánh mì đen và 2 con cá:  "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá )(Gioan 6,9),

Đàng khác theo y học, đạo đức học: Thịt bò, thịt heo có nhiều chất kích thích tình dục hơn cá, tôm, cua (cá có máu lạnh). Có thể đó là một lí do Giáo Hội dạy kiêng thịt như một hình thức hãm mình, sám hối tội lỗi.

Nếu là ngày Sám hối tội lỗi, thì ăn chay kiêng thịt là đúng ý nghĩa rồi. Ngày sám hối mà "ăn thịt béo uống rượu ngon" thì gọi là ăn Tiệc chứ ai gọi là ăn chay.

 Nhưng nếu vì kiêng thịt mà có người tránh miền này để qua miền khác mà ăn, hoặc đi tìm cách ăn cho sang, cho ngon thì "hết ý kiến" như truyện vui như sau:

Ngày thứ sáu mùa Chay kiêng thịt, một thanh niên khỏe mạnh vào quán ăn. Người tiếp viên tới hỏi: Thưa ông dùng chi? Ông khách nói:  Cho tôi đĩa cá sấu?- Xin lỗi, chúng tôi không có.- Cho tôi đĩa cá voi?- Xin lỗi, chúng tôi không có.- Cho tôi đĩa cá mập.- Xin lỗi, chúng tôi cũng không có.- Tiệm gì lạ vậy, Chúa ơi, xin Chúa chứng giám, hôm nay con đành phải ăn thịt. Thế rồi anh gọi tiếp: Thôi, cho tôi một đĩa thịt bò bít tết và một chai uýt ki. Làm dấu Thánh Giá nghệch ngoạc xong, ông ta  ăn uống tỉnh bơ, và cảm thấy lương tâm yên ổn hơn khi nào hết! :)))

* Kết:

Giáo Luật khoản 1249 viết:   Luật Chúa buộc mọi tín hữu làm việc thống hối  theo các thức riêng của mỗi người. Nhưng để các tín hữu liên kết với nhau trong một vài nghĩa vụ thống hối chung, luật qui định những ngày thống hối, để trong những ngày ấy, các tín hữu chú trọng đặc biệt đến sự cầu nguyện, thi hành việc đạo đức và việc bác ái, từ bỏ bản thân, bằng các trung thành chu toàn các bổn phận riêng và nhất là bằng cách giữ chay và kiêng thịt".

GL khoản 1251 cũng khuyên các chủ chăn và các phụ huynh dạy cho các em dù chưa đến tuổi buộc ăn chay và kiêng thịt để chúng hiểu biết ý nghĩa đích thực của việc thống hối.

 

Ăn chay, kiêng thịt trong đạo Công Giáo, dù không nhiều như luật giữ chay của mấy đạo khác... (Phật giáo: tín đồ ăn chay nhiều ngày… đạo Cao đài: tín hữu ăn chay từ 2-10 ngày trong một tháng, hoặc ăn chay trường, nếu là bậc chức sắc.  Đạo Hồi có cả tháng chay Ramadan (không ăn, không uống, không hút thuốc và ngay cả kiêng việc chăn gối).

 Hy vọng những người "con Chúa" không ai thấy ăn chay kiêng thịt đạo mình là khó quá rồi kêu ca hay khinh thường  phạm đến luật Hội Thánh mà mang tội.

 

LM. Mark Đoàn Quang, CMC


Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

Ăn Chay Và Ăn Mặn

[caption id="attachment_3140" align="aligncenter" width="200" caption="“Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro…”."][/caption]

Đời đáng sống, hay không đáng sống… 


Trong những ngày này, người Công giáo đang sống trong những ngày gọi là “Mùa Chay”. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro. Mùa Chay là mùa hy sinh hãm mình, thanh tẩy tâm hồn, canh tân đời sống để chuẩn bị tâm hồn kỷ niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô và mừng Đại Lễ Phục Sinh.

Chữ “CHAY” nơi đây hiểu theo một nghĩa hơi khác với ý niệm “CHAY” của một số tôn giáo khác. Như bên Phật giáo, chữ “CHAY” có nghĩa là “không ăn thịt”, chỉ ăn rau, hoa trái. “Chay trường” là kiêng ăn thịt suốt đời, hoặc trong một thời gian lâu dài; hoặc ăn chay theo ngày như “mồng một và ngày rằm”. Vì thế có danh từ “ĂN CHAY” và “ĂN MẶN”. Có những trường phái hoặc những người chủ trương “ăn chay” (vegetarian) để chữa bịnh, hoặc để tu luyện, như những tu sĩ nam nữ trong các dòng khổ tu Công giáo, như “Châu Sơn”, “Phước Sơn”, dòng tu Camêlô…

Chữ “chay” bên Công giáo hiểu là “ăn ít đi”, ngày ăn chay là ngày chỉ ăn một bữa chính và một bữa ăn nhẹ, và không ăn “vặt” giữa các bữa ăn, trừ những vị đã già nua, hoặc những người bệnh tật. Còn “kiêng thịt” mới là ngày không ăn thịt. Ngày xưa, người Công giáo không ăn thịt ngày thứ Sáu suốt năm để kỷ niệm ngày Chúa Giêsu chịu chết trên Thập tự giá để chuộc tội nhân loại. Bây giờ chỉ còn “kiêng thịt ngày thứ Sáu trong Mùa Chay”. Tuy nhiên, nhiều người vẫn kiêng thịt ngày thứ Sáu quanh năm, có người kiêng thịt ngày thứ Sáu và ngày thứ Tư trong tuần.

Trong Mùa Chay, người Công giáo chỉ buộc vừa ăn chay (chỉ buộc những người từ 18 tuổi đến 59 tuổi), vừa kiêng thịt (chỉ buộc những người từ 14 tuổi trở lên), trong hai ngày là ngày “Thứ Tư Lễ Tro” (ngày mở đầu Mùa Chay Thánh) và ngày “Thứ Sáu Tuần Thánh” (ngày đặc biệt kỷ niệm của Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu). Những người đau ốm hoặc quá già nua tuổi tác thì không phải giữ những luật trên đây.

Như vậy, so với các tôn giáo bạn, thì lề luật “ăn chay”, “kiêng thịt” của Giáo hội Công giáo rất là nhẹ nhàng. Lý do, vì Giáo Hội coi các lề luật, kể cả đi dâng lễ ngày Chúa Nhật, chỉ là nhưng “hướng dẫn cụ thể” để mọi người tuỳ theo hoàn cảnh, tuổi tác tự làm lấy những công việc đó một cách tự nguyện do đức tin chân thành và lòng yêu mến Chúa, chứ không chỉ làm vì sợ tội, sợ hình phạt. Giống như những người con hy sinh thời giờ đến thăm cha mẹ, hoặc giữ những lời chỉ bảo của cha mẹ, vì lòng hiếu thảo, yêu mến cha mẹ, chứ không chỉ vì sợ cha mẹ la mắng, hoặc cha mẹ ghét bỏ. Đó là thái độ “sống đạo trưởng thành”, với tấm lòng, với tình yêu thương, chứ không phải chỉ vì sợ tội. Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Hơn nữa, Mùa Chay không phải chỉ gồm có ăn chay, kiêng thịt, mà quan trọng ở chỗ “hy sinh hãm mình”, tập luyện ý chí để tự kiểm soát con người của mình (self-control) không bị “danh, lợi, thú” điều khiển cuộc đời của mình.

Như vậy, Mùa Chay là thời gian đặc biệt để mọi người tự thanh luyện con người của mình, làm mới lại con người của mình; nhờ ơn Chúa Thánh Thần giúp đỡ để canh tân đời sống. Thực ra đó là những điều mà mỗi người chúng ta đều phải làm hằng ngày để cải thiện con người của mình, để mỗi ngày trở nên tốt hơn, mới hơn (tân nhật tân); hôm nay phải cố gắng để “mới hơn hôm qua”. Đó là một cuộc hành trình đức tin để tiến lên gần Thiên Chúa là Đấng Chân Thiện Mỹ… Mỗi ngày chúng ta tiến gần cái chết hơn, đến gần nấm mồ của chúng ta hơn và cũng là tiến gần đến với Chúa hơn. Con đường sống đạo là con đường đi lên, vươn lên mãi mãi.

Một cách cụ thể, trong Mùa Chay, mỗi người thường được nhắc nhở phải cầu nguyện nhiều hơn, ăn chay hãm mình nhiều hơn; nhưng phải đưa đến hiệu quả là “sống bác ái, vị tha” hơn, qua các công việc từ thiện, giúp đỡ những người nghèo khó trên thế giới, thường được gọi là “làm phúc, bố thí”. Danh từ “bố thí” bây giờ không còn được dùng; vì làm việc từ thiện là một “chia sẻ” trong tình nhân loại, chứ không phải là việc “bố thí” ban phát của người giàu cho người nghèo.

Trong Mùa Chay, mọi người đều được nhắc nhở đọc, suy ngẫm và đưa vào thực hành hằng ngày, những đoạn Kinh Thánh trong sách Cựu Ước cũng như Tân Ước nói đến tinh thần công bằng, bác ái.

Trong Cựu Ước, Tiên tri Isaia nhắc nhở: “Việc ăn chay mà Thiên Chúa muốn, đó là: mở xiềng xích trói buộc cho người bị áp bức, đem tự do cho người bị đàn áp, phá tan gông cùm xiềng xích bất công. Cho người đói ăn; tìm nơi trú trọ cho người không nhà cửa; đem áo mặc cho người trần trụi…” (Isaia 58,6…). Tiên tri Ezechiel kêu gọi: “Không áp bức người ta, trả lại của cải cho người cầm cố; không gian lận của người khác; cho người đói ăn; cho người trần trụi áo mặc. Không cho vay để lấy lời nặng, không gây oan khiên…” (Ezekiel 18,7…). Trong sách Thứ Luật, có đoạn viết: “Anh em đừng cứng lòng, đừng khép lòng với người thiếu thốn; nhưng hãy rộng tay giúp đỡ họ trong cơn túng cực…” (Thứ luật 15,7…); hoặc: “Hãy lắng nghe những lời than van của đồng loại; hãy công bằng trong việc xét xử cho cả hai bên, dù một bên là ngoại kiều. Khi xét xử, đừng nể vị, hãy lắng nghe người bình dân cũng như người quyền thế” (Thứ Luật 1,16…). Sách Cách ngôn viết: “Đừng bóc lột người nghèo khổ vì họ nghèo khổ; đừng áp bức những người yếu thế nơi xử án…” (Cách ngôn 22,22…). Đặc biệt, Tiên tri Giêrêmia viết: “Hãy thi hành sự công minh, chính trực; hãy giải thoát người bị áp bức; đừng ngược đãi, hành hung những người ngoại kiều, kẻ mồ côi, người góa bụa. Không được đổ máu những người vô tội…” (Giêrêmia 22,3…).

Kinh Thánh Tân Ước càng nhấn mạnh rõ ràng hơn về việc thực hành đức tin qua việc tôn trọng phép công bằng và lòng thương, giúp đỡ mọi người, nhất là những người gặp cảnh khó khăn thiếu thốn. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa thì chưa có ai nhìn thấy bao giờ; nhưng nếu chúng ta thương yêu nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới được hoàn hảo…” (1 Gioan 4,12…). “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở trong người đó được? Anh em thân mến, anh em đừng yêu thương nhau trên đầu môi, chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm!” (1 Gioan3,17…). Thánh Giacôbê viết: “Thưa anh em, anh em nói mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Đức tin có thể cứu rỗi người đó được chăng? Giá như có người anh em nào không có áo che thân, không đủ ăn hằng ngày, mà anh em nói: Hãy đi bình an, mặc cho ấm, và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ họ đang cần, thì nào có ích gì? Đức tin không hành động là đức tin chết!” (Thư Giacôbê 2,14…). Chỗ khác Thánh Giacôbê viết: “Anh em đã tin vào Chúa Kitô thì đừng đối xử thiên tư. Giả như có một người bước vào dự cuộc hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời một người nghèo khó cũng vào, ăn mặc tồi tàn, mà anh em kính cẩn nhìn ngừơi ăn mặc lộng lẫy và nói: xin mời ông vào ngồi chỗ danh dự này; còn với ngừơi nghèo anh em lại nói: Đứng đó! Hoặc: Ngồi dưới chân tôi đây này! Như vậy là anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và là những kẻ đối xử bất công đầy tà tâm đó sao!” (Thư Giacôbê 2,1…).

Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, Ngài đã sinh ra trong gia đình nghèo khó, sống cuộc đời nghèo khó (Con cáo có hang, con chim có tổ, con người không có chỗ dựa đầu!), và khi đi rao giảng Tin Mừng tình thương, Ngài đã luôn đến với người nghèo khó, bệnh hoạn, phong cùi để an ủi và chữa lành cho họ. Ngài đã nói nhiều dụ ngôn để kêu gọi mỗi tín hữu hãy biết thương yêu giúp đỡ người nghèo; như trong dụ ngôn “Người nhà giàu và ông Lazarô nghèo khó”: Người giàu có ăn mặc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Trong khi ông Lazarô thì nghèo khó, mụn nhọt đầy mình, nằm ở cổng người nhà giàu, thèm được ăn những mảnh vụn từ bàn ăn của người nhà giàu rớt xuống mà ăn cho đỡ đói; nhưng chẳng ai cho. Cuối cùng thì ông Lazarô chết và người nhà giàu cũng chết. Nhưng số phận hai người sau cái chết khác hẳn nhau. Ông Lazarô được hưởng cuộc sống hạnh phúc nước trời; còn người nhà giàu phải chịu cảnh khốn khổ! (Luca 16,19…).

Mỗi người chúng ta đều phải chết, dù giàu, dù nghèo, và khi chết chúng ta đều trở về cát bụi, không mang theo chút của cải gì. Những gì chúng ta có thể mang theo để dâng lên Chúa đó là những gì chúng ta làm cho người lâm cảnh cùng khốn. Trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta đi dâng lễ rất đông, và chúng ta đều lên chịu xức tro trên trán và nghe ca đoàn hát rất cảm động: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro…”.

Ngày phán xét cuối cùng Thiên Chúa sẽ xét xử chúng ta theo những việc chúng ta đã làm cho Chúa qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh hoạn… Trong câu chuyện “Ngày phán xét chung”, Thiên Chúa nói với những người tốt lành, từ tâm: “Các con hãy vào hưởng hạnh phúc Nước Trời, vì xưa Cha đói các con đã cho Cha ăn, Cha khát đã cho Cha uống, Cha bệnh hoạn các con đã viếng thăm… Khi chúng con làm những điều đó cho anh em là chúng con đã làm cho chính Cha!...” (Mathêu 25,31…).

Chính những đoạn Kinh Thánh trên đã thúc đẩy nhiều linh mục, tu sĩ, cũng như các tín hữu đã hy sinh thời giờ, tiền của cũng như cả cuộc đời để lo giúp đỡ người nghèo khó trên thế giới, phục vụ người đau ốm, săn sóc những bệnh nhân trong các trại phong cùi như ở Việt Nam trước đây và cả hiện nay.

Công việc bác ái, từ thiện là việc chúng ta phải làm suốt năm, suốt đời. Nhưng đặc biệt trong Mùa Chay, chúng ta càng cần đọc và suy ngẫm Lời Chúa để đem vào thực hành trong đời sống, để âm thầm phục vụ tha nhân trong khiêm tốn với cả lòng thương người phát từ lòng chân thành của chúng ta qua tác động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần tự hỏi: Tôi đã làm gì để giúp đỡ Chúa qua những người cần được giúp đỡ? 

Một cách thực tế chúng ta thử đặt vấn đề: Trong tủ áo của tôi có biết bao quần áo đắt tiền quý giá, nhiều khi mặc một lần rồi bỏ đó; trong khi trên thế giới có bao người không đủ quần áo để mặc cho ấm vào những ngày thời tiết lạnh giá!

Chúng ta có bao đôi giày mắc tiền, chỉ đi một lần rồi bỏ; trong khi trên thế giới có nhiều người nghèo, không có giày dép để đi.

Chúng ta ăn uống quá đầy đủ và bỏ đi bao đồ ăn dư thừa; trong khi nhiều người không có một bữa ăn no cho mình và cho con cái.

Lương tâm một con người lương thiện, một Kitô hữu không thể không đặt những vấn đề như vậy! Thực tế, đã có nhiều người đã đặt vấn đề, và đã rộng tay giúp đỡ các công cuộc từ thiện của Giáo Hội, nhờ thế hội từ thiện của Giáo Hội, thường được gọi là “Caritas" (Bác Ái) quốc tế, cũng như ở Hoa Kỳ hằng năm, nhất là vào Mùa Chay, đã nhận được nhiều tiền của để giúp các công cuộc từ thiện, các chương trình xã hội trên toàn thế giới.

Xin Chúa Thánh Thần canh tân đời sống chúng ta trong Mùa Chay Thánh này, để chúng ta cũng được “sống lại” với Chúa trong cuộc sống mới, rộng mở tâm hồn để cùng chung tay xây dựng hoà bình, thịnh vượng và phát triển trên toàn thế giới, và chúng ta được thấy cuộc đời chúng ta thật tốt đẹp, thật hạnh phúc và giàu ý nghĩa.

“Ăn Chay” hay “Ăn Mặn” là tuỳ sự lựa chọn và hoàn cảnh sống của mỗi người; tuy nhiên, “đời đáng sống hay không đáng sống?”, “đời chúng ta có hạnh phúc hay không?” là tuỳ thái độ sống của chúng ta và lòng từ tâm quảng đại của chúng ta!

Lm. Anphong Trần Đức Phương